
Viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không? Đối tượng nào dễ mắc bệnh?
Tổng quan bệnh viêm phổi mãn tính
Trước khi giải đáp thắc mắc viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không, chúng ta cùng tìm hiểu một số thông tin tổng quan về căn bệnh này.
1. Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến bệnh viêm phổi mãn tính có thể được chia thành hai nhóm, gồm có: tác nhân lây nhiễm gây viêm phổi mãn tính và tác nhân gây viêm phổi cấp (nguyên nhân gây viêm phổi mãn tính hiếm gặp). Trong những tác nhân thường gây viêm phổi cấp tính, Enterobacteriaceae, Pseudomonas, Staphylococcus aureus, Haemophilus influenzae, vi khuẩn kỵ khí là các sinh vật có nhiều khả năng gây bệnh viêm phổi mãn tính dai dẳng hơn cả. (1)
Đây là quá trình hoại tử mãn tính thường xảy ra ở người mắc bệnh tiềm ẩn nặng (phổi tắc nghẽn mãn tính, đái tháo đường…), trào ngược dạ dày, rối loạn nuốt, bệnh nhập viện, cần sử dụng máy thở dài hạn, có nguy cơ bị sặc tái phát (như bệnh Parkinson…).
Viêm phổi cấp do virus hoặc vi khuẩn (Streptococcus pneumoniae, Mycoplasma pneumoniae…). Hiếm khi bệnh tiến triển thành viêm phổi mãn tính (xảy ra do vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng). Viêm phổi mãn tính ở người bệnh AIDS có thể do vi khuẩn Rhodococcus Equi hoặc Pneumocystis jirovecii, các rối loạn không nhiễm trùng như sẹo lồi Kaposi… gây ra. Nhiễm trùng do động vật nguyên sinh và giun là nguyên nhân gây viêm phổi mãn tính hiếm gặp.
2. Triệu chứng
Một số triệu chứng lâm sàng của bệnh viêm phổi mãn tính bao gồm:
- Ho kéo dài: Ho là dấu hiệu cảnh báo nhiều bệnh lý hô hấp, trong đó có bệnh viêm phổi mãn tính. Người bệnh thường bị ho thành cơn, đặc biệt triệu chứng ho thường trở nặng sau các đợt nhiễm trùng đường hô hấp, khi trời lạnh, thời tiết thay đổi, tiếp xúc với khói bụi…
- Ho đờm: Người bệnh viêm phổi mãn tính có thể bị ho kèm theo đờm, đờm thường có màu trắng. Ở các trường hợp bị bội nhiễm do vi khuẩn đờm thường có màu xanh hoặc vàng.
- Khó thở: Tuy ít gặp hơn nhưng khó thở cũng có thể là biểu hiện của bệnh viêm phổi mãn tính.
Ngoài những triệu chứng kể trên, người bệnh viêm phổi mãn tính cũng có thể gặp tình trạng mệt mỏi, sốt, ớn lạnh, sụt cân, ngực đau… Những triệu chứng của bệnh tái đi tái lại nhiều lần, vì thế mỗi đợt chữa trị thường kéo dài. Vậy viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không?
Viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không?
Viêm phổi mãn tính là bệnh lý nguy hiểm, ước tính căn bệnh này đã gây ra khoảng 5 triệu ca tử vong trên toàn thế giới. Ở những quốc gia đang phát triển, bệnh viêm phổi mãn tính xuất hiện phổ biến hơn. Mỗi người cần chủ động phòng ngừa, tiến hành thăm khám, chữa trị bệnh viêm phổi mãn tính ngay từ lúc gặp triệu chứng đáng ngờ để tránh gặp các biến chứng nguy hiểm.
Viêm phổi mãn tính có thể diễn tiến nghiêm trọng, đe dọa tính mạng của người bệnh. Bệnh viêm phổi mãn tính nói riêng và viêm phổi nói chung có thể xảy ra ở những người trẻ, tuy nhiên bệnh nguy hiểm hơn với trẻ sơ sinh, người trên 65 tuổi, người đang mắc cùng lúc một số bệnh lý khác, người có hệ miễn dịch kém. (2)

Đối tượng dễ mắc bệnh viêm phổi mãn tính
Một số đối tượng dễ bị bệnh viêm phổi mãn tính khi có một số yếu tố nguy cơ, bao gồm:
- Tuổi tác: Yếu tố tuổi tác có thể dẫn đến chứng hít sặc, liên quan đến một số bệnh lý tiềm ẩn mãn tính như bất động mãn tính, đột quỵ…
- Giới tính: Lấy ví dụ như bệnh nấm paracoccidioidomycosis (bệnh nấm phát triển tại phổi) thường xuất hiện ở nam giới trưởng thành.
- Di truyền và chủng tộc cũng là yếu tố ảnh hưởng làm triệu chứng chuyển nặng. Ví dụ như bệnh nấm histoplasmosis mãn tính thường xuất hiện ở nam giới lớn tuổi da trắng có tiền sử bị bệnh phổi mãn tính.
Sở thích, nghề nghiệp cũng là những yếu tố cần được đánh giá trong sự phát triển bệnh viêm phổi mãn tính. Ví dụ như bệnh coccidioidomycosis (nhiễm nấm phổi do hít nhiều bào tử nấm) thường xảy ra ở nhà khảo cổ, người làm nghề thu gom đá… Lịch sử đi lại cũng là vấn đề cần được quan tâm khi tìm nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến bệnh viêm phổi mãn tính.
Lao phổi là bệnh có mối liên quan với tình trạng vô gia cư, nhiễm HIV, nghiện rượu. Nghiện rượu có thể liên quan với bệnh viêm phổi trực khuẩn gram âm mãn tính, viêm phổi hoại tử mãn tính hiếu khí/kỵ khí hỗn hợp, viêm phổi hít. Viêm phổi mãn tính cũng có thể liên quan đến việc đã tiếp xúc với các dược phẩm được chỉ định.
Biến chứng viêm phổi mãn tính
Chúng ta đã biết viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không, vậy biến chứng của căn bệnh này như thế nào? Nếu không được chẩn đoán, điều trị kịp thời, bệnh viêm phổi mãn tính có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm. Những biến chứng phổ biến gặp ở người bệnh viêm phổi mãn tính gồm có: phù thũng, ho ồ ạt ra máu, suy giảm chức năng phổi, tràn khí màng phổi, xẹp thùy phổi, suy hô hấp, áp xe phổi, tràn mủ màng phổi, tràn dịch màng phổi…
Những biến chứng nghiêm trọng hơn có thể kể đến gồm có: viêm phúc mạc, viêm khớp, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn có thể làm suy đa tạng… Những biến chứng nguy hiểm có thể khiến người bị viêm phổi mãn tính đối mặt với nguy cơ tử vong.

Cách điều trị viêm phổi mãn tính
Bên cạnh thắc mắc viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không, việc nên điều trị căn bệnh này bằng cách nào cũng được nhiều người bệnh quan tâm. Tùy vào tình trạng sức khỏe của người bệnh, tác nhân gây bệnh… bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị phù hợp. Dưới đây là một số cách điều trị viêm phổi mãn tính có thể được áp dụng:
1. Thuốc chống nhiễm trùng
Viêm phổi mãn tính nhìn chung không phải trường hợp cấp cứu y tế, bác sĩ lâm sàng có đủ thời gian để đánh giá trước khi chỉ định liệu pháp chữa trị cụ thể. Trong hầu hết trường hợp, liệu pháp chữa trị theo kinh nghiệm được thực hiện sau khi đã tiến hành đầy đủ những nghiên cứu chẩn đoán.
Khi nghi ngờ người bệnh bị viêm phổi hít do vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí hỗn hợp, sự kết hợp giữa tazobactam/piperacillin hoặc sulbactam/ampicillin cộng với nafcillin/vancomycin thường được dùng. Bác sĩ có thể thêm metronidazole vào phác đồ nếu muốn có phạm vi bao phủ kỵ khí rộng hơn.
Với những ca bệnh nghi ngờ có mầm bệnh vi khuẩn khác, việc chữa trị nên được tiến hành dựa trên kết quả nhuộm gram hoặc những dữ liệu khác mang đến cái nhìn sâu hơn về tác nhân gây bệnh. Ví dụ, khi một mẫu đờm cho thấy nhiều cầu khuẩn gram dương thành cụm, bác sĩ có thể bắt đầu chỉ định dùng vancomycin. Ngược lại, nếu sinh vật chiếm ưu thế là trực khuẩn gram âm thì bác sĩ có thể chỉ định dùng tazobactam/piperacillin, cefepime/ceftazidime.
Nếu nghi ngờ nhiễm trùng do vi khuẩn bậc cao, ví dụ như nocardia, dựa trên tình trạng lâm sàng hoặc kết quả xét nghiệm mẫu hô hấp xem xét vi khuẩn hình que phân nhánh có gram thay đổi thì cách chữa trị ban đầu bằng sulfamethoxazole cộng với một tác nhân khác, ví dụ như linezolid, ceftriaxone/moxifloxacin là hợp lý.
Nếu những mẫu hô hấp cho thấy các dạng nấm men tương thích với histoplasma, cryptococcus, coccidioides hoặc blastomyces thì azole (ví dụ như itraconazole, fluconazole) có thể là lựa chọn theo kinh nghiệm tối ưu.
Với người bệnh có mẫu hô hấp cho thấy các sinh vật kháng axit, người bệnh nên được cách ly hô hấp, bắt đầu chữa trị bằng bốn loại thuốc với ethambutol, pyrazinamid, isoniazid, rifampin cho đến khi xác nhận sinh vật đó là mycobacterium tuberculosis (vi khuẩn gây bệnh lao) hoặc một loại vi khuẩn mycobacteria không gây lao.

2. Những phương thức trị liệu quan trọng khác
Ngoài liệu pháp kháng khuẩn vẫn còn một số phương pháp can thiệp tiềm năng khác có thể mang đến lợi ích cho người bệnh viêm phổi mãn tính. Đầu tiên phải kể đến là kỹ thuật thuật nội soi phế quản và phẫu thuật. Nội soi phế quản điều trị có thể giữ vai trò quan trọng ở những người bệnh có dịch tiết nhiều, ở người có thể tạo điều kiện thuận tiện cho việc vệ sinh phổi bằng cách nội soi phế quản kết hợp vật lý trị liệu ngực.
Phẫu thuật giữ vai trò hạn chế trong việc chữa trị bệnh viêm phổi mãn tính. Cắt thùy/phổi có thể được xem xét thực hiện ở những người bị viêm phổi tắc nghẽn mãn tính, xuất hiện nhiều áp xe hoặc áp xe lan đến toàn bộ thùy/phổi và trong những người bệnh không có chức năng của một thùy/phổi do tình trạng nhiễm trùng lan rộng.
Phẫu thuật cũng có thể giữ vai trò quan trọng ở người bị màng phổi phản ứng hoặc tràn dịch màng phổi lượng lớn gây bệnh phổi hạn chế. Ở các tình huống này, việc loại bỏ tình trạng tràn dịch màng phổi và/hoặc bóc bỏ mô phản ứng màng phổi có thể giúp cải thiện đáng kể chức năng của phổi.
Cách phòng tránh viêm phổi mãn tính
Sau khi tìm hiểu viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không, mỗi người nên biết thêm những phương pháp giúp phòng tránh bệnh viêm phổi mãn tính. Cách phòng tránh bệnh viêm phổi mãn tính là tránh tiếp xúc với các tác nhân có thể gây ra bệnh lý này. Thế nhưng điều này không khả thi với phần lớn dân số trên toàn cầu vì nhiều mầm bệnh xuất hiện phổ biến, đặc biệt là những mầm bệnh đặc hữu, vi khuẩn mycobacteria không gây lao…
Để có thể phòng ngừa, mỗi người nên chủ động tránh đến các khu vực đang lưu hành mầm bệnh, hạn chế tiếp xúc với những vật truyền bệnh (ví dụ như muỗi). Hiện tai vẫn chưa có loại vắc xin mang đến hiệu quả phòng ngừa bệnh viêm phổi mãn tính.

Khi nào nên đi khám viêm phổi mãn tính để tránh gặp nguy hiểm?
Ngay khi gặp các triệu chứng của bệnh viêm phổi mãn tính, người bệnh cần nhanh chóng đến gặp bác sĩ thăm khám. Thông qua việc thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng… bác sĩ có thể tìm ra nguyên nhân gây bệnh, chỉ định phác đồ chữa trị phù hợp giúp người bệnh cải thiện tình trạng sức khỏe, tránh gặp biến chứng nguy hiểm.
Chuyên khoa Hô hấp, Hệ thống PlinkCare là cơ sở y tế uy tín được nhiều người bệnh viêm phổi mãn tính tin tưởng, lựa chọn đến thăm khám, điều trị. Với đội ngũ bác sĩ giỏi chuyên môn cùng hệ thống máy móc, thiết bị chuyên dụng hiện đại (ví dụ như máy đo đa ký hô hấp Alice NightOne, hệ thống chụp X-quang treo trần DigiRAD-FP, máy đo chức năng hô hấp HI 801, ống nội soi phế quản ống mềm video kèm phụ kiện BF-P190, ống nội soi màng phổi ống mềm video kèm phụ kiện LTF-160…), mang đến hiệu quả khám, điều trị bệnh hô hấp cao, an toàn.
Để đặt lịch thăm khám, điều trị bệnh tại Hệ thống PlinkCare, Quý khách vui lòng liên hệ:
Tóm lại, viêm phổi mãn tính có nguy hiểm không? Viêm phổi mãn tính có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm, thậm chí khiến người bệnh tử vong. Việc thăm khám, chẩn đoán, chữa trị, kiểm soát bệnh viêm phổi mãn tính cần được thực hiện sớm và theo chỉ định của bác sĩ.