Image

Viêm phổi bệnh viện: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị

Viêm phổi bệnh viện

Viêm phổi bệnh viện là gì?

Viêm phổi bệnh viện hay viêm phổi mắc phải tại bệnh viện (HAP) thường xảy ra sau khi nhập viện 48 giờ hoặc lâu hơn và bệnh không xuất hiện tại thời điểm người bệnh nhập viện. Viêm phổi mắc phải tại bệnh viện còn được định nghĩa là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp dưới không ủ bệnh ở thời điểm nhập viện, có biểu hiện lâm sàng sau 2 ngày hoặc hơn kể từ lúc nhập viện.

HAP xảy ra với tỷ lệ từ 5 – 10/1000 lần nhập viện, đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây nhiễm trùng ở các bệnh viện tại Hoa Kỳ và châu Âu. Tại Việt Nam, bệnh viêm phổi mắc tại bệnh viện chiếm từ 21 – 75% số trường hợp bị nhiễm khuẩn bệnh viện. Viêm phổi mắc phải tại bệnh viện thường khiến thời gian lưu viện kéo dài thêm khoảng 1 – 2 tuần. Ngoài ra, viêm phổi tại bệnh viện còn có liên quan đến việc làm gia tăng nguy cơ tử vong, gây tổn thương phổi lâu dài.

Các loại viêm phổi bệnh viện thường gặp

Một số loại viêm phổi mắc phải tại bệnh viện thường gặp gồm:

1. Viêm phổi liên quan đến máy thở (VAP)

Viêm phổi liên quan đến máy thở (VAP) là phân nhóm của bệnh viêm phổi bệnh viện (HAP), xảy ra ở những đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU), thường xuất hiện từ sau 48 – 72 giờ kể từ lúc đặt nội khí quản, ảnh hưởng khoảng 10 – 20% người bệnh thở máy trong hơn 48 giờ. Tỷ lệ tử vong liên quan đến VAP ở mức từ 33 – 50%. VAP có thể xảy ra ở những người bị bệnh cấp tính nặng, người bị suy hô hấp mạn tính cần thở máy. (1)

2. Viêm phổi bệnh viện (HAP)

Viêm phổi mắc tại bệnh viện (HAP) bao gồm các trường hợp viêm phổi xảy ra trong hoặc liên quan đến các cơ sở chăm sóc sức khỏe. HAP đặc biệt đáng quan tâm vì nguy cơ nhiễm trùng với các sinh vật kháng nhiều loại thuốc (MDR) cao hơn so với viêm phổi cộng đồng thông thường.

Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp HCAP đều bị nhiễm các tác nhân gây bệnh MDR, và nguy cơ này còn tùy thuộc vào các yếu tố rủi ro cụ thể của người bệnh, chứ không đơn thuần dựa trên việc họ đã tiếp xúc với hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Bệnh viêm phổi bệnh viện được chia thành một số loại thường gặp
Bệnh viêm phổi mắc tại bệnh viện được chia thành một số loại thường gặp.

Nguyên nhân gây viêm phổi bệnh viện

Bệnh viêm phổi bệnh viện (HAP) là kết quả của sự mất cân bằng giữa khả năng phòng vệ tự nhiên của cơ thể và khả năng xâm nhập, tấn công của vi sinh vật vào đường hô hấp dưới. Trực khuẩn gram âm hiếu khí (như Pseudomonas aeruginosa) là một trong những tác nhân gây bệnh chính liên quan đến HAP, và chúng có khả năng gây ra sự phá hủy mô phổi nghiêm trọng.

Có thể chia những tác nhân gây bệnh gram âm hiếu khí thành 2 loại. Loại đầu tiên bao gồm những vi sinh vật gây viêm phổi hoại tử với hiện tượng tạo hang nhanh, hình thành vi áp xe, xâm lấn mạch máu, xuất huyết (ví dụ như P aeruginosa). Loại thứ hai là những trực khuẩn gram âm không hoại tử khác (chẳng hạn như Serratia marcescens). (2)

1. Nguyên nhân phổ biến gây viêm phổi mắc phải tại bệnh viện

Những loại vi khuẩn thường gặp có liên quan đến bệnh viêm phổi mắc tại bệnh viện bao gồm:

  • P aeruginosa.
  • Staphylococcus aureus, bao gồm S. aureus kháng methicillin (MRSA) và S. aureus nhạy cảm với methicillin (MSSA).
  • Vi khuẩn Escherichia coli.
  • Klebsiella pneumoniae.
  • Các vi khuẩn không phải Enterobacteriaceae, ví dụ như Stenotrophomonas, S marcescens và các loài Acinetobacter là những tác nhân ít phổ biến hơn. Các loài Acinetobacter thường xâm chiếm vào các chất tiết đường hô hấp ở người bệnh trong những đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU). Viêm phổi bệnh viện do các loài B cepacia hoặc Acinetobacter gây ra có thể liên quan đến những đợt bùng phát. Haemophilus influenzae và Streptococcus pneumoniae chỉ được phục hồi trong bệnh viêm phổi mắc phải tại bệnh viện khởi phát sớm.

2. Những tác nhân gây bệnh ít liên quan đến viêm phổi mắc tại bệnh viện

Các tác nhân gây bệnh sau đây ít khi có liên quan đến những đợt bùng phát chứng viêm phổi mắc phải tại bệnh viện, thường tác động đến các người bệnh bị suy giảm miễn dịch mức độ nặng, bao gồm: loài Legionella, virus hợp bào hô hấp (RSV), virus cúm A, virus gây viêm phổi ở người (hMPV), virus parainfluenza ở người tuýp 3 (HPIV-3).

Viêm phổi do Legionella ở bệnh viện thường xuất hiện theo đợt bùng phát hoặc xảy ra theo cụm. Virus cúm A, hMPV, RSV, HIPV-3 có thể gây bệnh viêm phổi tại bệnh viện lây từ người sang người.

3. Các sinh vật liên quan đến chứng viêm phổi liên quan đến máy thở (VAP)

Những sinh vật liên quan đến chứng viêm phổi do máy thở (VAP) gồm có: S Aureus (bao gồm MRSA, MSSA), bệnh P. aeruginosa, S maltophilia, loài Acinetobacter,… Những sinh vật kỵ khí không phải là tác nhân quan trọng gây ra bệnh viêm phổi bệnh viện.

Một số loại vi khuẩn có thể là tác nhân gây bệnh viêm phổi
Một số loại vi khuẩn có thể là tác nhân gây bệnh viêm phổi mắc phải tại bệnh viện.

Cơ chế gây viêm phổi bệnh viện

Hít vào, lây lan qua đường máu là cơ chế chính giúp vi khuẩn đi đến phổi, gây ra viêm phổi bệnh viện. Hít dịch tiết hầu họng vào khí quản là con đường chính để các sinh vật xâm nhập vào hệ hô hấp dưới. Hầu hết các bệnh lý nhiễm trùng đường hô hấp trong bệnh viện đều do tình trạng hít phải chất tiết của đường hô hấp trên vào đường hô hấp dưới.

Ngoài ra, hít nhiều chất chứa trong thực quản hoặc dạ dày cũng có thể dẫn đến chứng viêm phổi mắc tại bệnh viện. Mặt khác, tình trạng nhiễm trùng qua đường máu có nguồn gốc từ xa (ví dụ như nhiễm trùng tiết niệu hoặc nhiễm trùng da), khi các vi sinh vật tiến vào phổi qua đường máu cũng có thể dẫn đến bệnh viêm phổi tại bệnh viện.

Triệu chứng viêm phổi bệnh viện

Người bị viêm phổi mắc phải tại bệnh viện có thể gặp các triệu chứng như: sốt (thường sốt cao hơn 38℃ có thể kèm theo tình trạng ớn lạnh), ho (có thể là ho có đờm hoặc ho khan), khạc đờm nhầy mủ (đờm có thể là có màu xanh lá cây, vàng, trắng hoặc nâu), gặp hội chứng đông đặc, đau ngực (có thể là đau nhức, đau nhói hoặc đau âm ỉ), mệt mỏi, nhức đầu (có thể là đau nhói hoặc đau âm ỉ), buồn nôn (có thể kèm theo nôn), khó thở,…

Một số người bị viêm phổi mắc phải tại bệnh viện còn có thể gặp các triệu chứng như co giật, lú lẫn, rối loạn nhịp tim, da xanh tái,… Các triệu chứng lâm sàng của viêm phổi bệnh viện thường bị nhầm lẫn với những bệnh lý khác, chẳng hạn như dị ứng thuốc, nhồi máu phổi, trúng độc, viêm khí phế quản, xẹp phổi, suy tim ứ trệ, chứng trụy hô hấp ở người lớn. (3)

Ho có thể là triệu chứng của bệnh viêm phổi bệnh viện
Ho (ho có đờm hoặc ho khan) có thể là triệu chứng của bệnh viêm phổi mắc tại bệnh viện.

Yếu tố nguy cơ gây viêm phổi bệnh viện

Người sử dụng thuốc ức chế axit, đặc biệt là thuốc ức chế bơm proton, có thể làm tăng nguy cơ viêm phổi mắc tại bệnh viện do giảm độ acid của dạ dày, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn.

Đặt nội khí quản là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với viêm phổi bệnh viện. Các yếu tố liên quan đến đặt nội khí quản như hút dịch vi mô quanh ống, thời gian thở máy kéo dài, chức năng nuốt bất thường, và sự tích tụ của chất tiết trên ống nội khí quản có thể làm tổn thương niêm mạc khí quản và tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập.

Ngoài ra, vi khuẩn gây bệnh có thể tạo ra màng sinh học glycocalyx trên bề mặt ống để bảo vệ chúng khỏi tác dụng của kháng sinh và cơ chế phòng vệ của cơ thể. Điều này có thể góp phần làm tăng khả năng tái phát nhiễm trùng và thất bại trong việc điều trị.

Tình trạng suy dinh dưỡng, sử dụng kháng sinh trước và lây nhiễm chéo với các người bệnh khác,… cũng là các yếu tố rủi ro dẫn đến bệnh viêm phổi tại bệnh viện. Bên cạnh đó, những yếu tố nguy cơ bị viêm phổi mắc phải tại bệnh viện còn bao gồm tuổi cao, bị chứng hít sặc, suy giảm ý thức, có bệnh kèm theo (suy thận, suy phổi, suy tim, suy gan). Những yếu nguy cơ chính khiến người bệnh bị viêm phổi sau phẫu thuật là trên 70 tuổi, bị suy yếu chức năng, phẫu thuật ngực hoặc vùng bụng trên.

Chẩn đoán viêm phổi bệnh viện

Để chẩn đoán chứng viêm phổi mắc phải tại bệnh viện, bác sĩ có thể chỉ định cho người bệnh thực hiện:

  • Chụp X-quang ngực hoặc tiến hành chụp CT ngực và xem xét tiêu chuẩn lâm sàng.
  • Đôi khi thực hiện nội soi phế quản hoặc tiến hành nuôi cấy máu.

Thông thường, bác sĩ sẽ đưa ra chẩn đoán dựa trên sự thâm nhiễm phổi mới được xác định bằng hình ảnh kết hợp với những đặc điểm lâm sàng của tình trạng nhiễm trùng, bao gồm triệu chứng mới khởi phát, xuất hiện đờm mủ, giảm sự oxy hóa, tăng bạch cầu. Thế nhưng, chẩn đoán lâm sàng không hoàn toàn chính xác. Không có dấu hiệu, triệu chứng hoặc đặc điểm nào trên phim chụp X-quang đủ nhạy cảm hay đặc hiệu để giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác chứng viêm phổi bệnh viện, vì đó có thể là do bệnh thuyên tắc phổi, xẹp phổi, phù phổi gây ra. (4)

chụp X-quang ngực để chẩn đoán bệnh viêm phổi bệnh viện
Bác sĩ có thể chỉ định cho người bệnh chụp X-quang ngực để chẩn đoán bệnh viêm phổi bệnh viện.

Nhuộm gram và nuôi cấy bán định lượng mẫu đờm có thể không đủ để xác định chính xác tình trạng nhiễm trùng, nhưng hai phương pháp này vẫn được sử dụng để hướng dẫn liệu pháp kháng sinh thực nghiệm. Điều này là bởi kết quả từ các phương pháp này có thể cung cấp thông tin về các vi sinh vật tiềm năng gây bệnh và giúp bác sĩ lựa chọn kháng sinh thích hợp.

Lấy mẫu dịch tiết hô hấp dưới thông qua kỹ thuật nội soi phế quản để nuôi cấy định lượng được coi là phương pháp mang lại mẫu vật đáng tin cậy hơn. Kỹ thuật này có thể giúp phân biệt tình trạng nhiễm trùng với nhiễm khuẩn và cung cấp thông tin chi tiết hơn về vi sinh vật gây bệnh.

Thông tin thu được từ việc lấy mẫu qua nội soi phế quản có thể giúp giảm việc sử dụng kháng sinh không cần thiết và hỗ trợ chuyển từ phạm vi kháng sinh rộng hơn sang phạm vi kháng sinh hẹp hơn, từ đó giảm nguy cơ tác dụng phụ và kháng thuốc. Thế nhưng, hiệu quả của phương pháp này vẫn cần thêm thời gian để kiểm chứng.

Kết quả đo lường những chất trung gian gây viêm trong dịch rửa phế nang hoặc huyết thanh chưa được chứng minh là đáng tin cậy trong việc giúp bác sĩ quyết định bắt đầu chỉ định cho người bệnh sử dụng kháng sinh. Kết quả nuôi cấy máu có thể tương đối đặc hiệu nếu xác định được tác nhân gây bệnh ở đường hô hấp, nhưng độ nhạy cảm của phương pháp này thường thấp. Điều này có nghĩa là mặc dù kết quả dương tính có thể chỉ ra tác nhân gây bệnh, nhưng kết quả âm tính không nhất thiết loại trừ khả năng nhiễm trùng.

Gần đây, các kỹ thuật xét nghiệm phân tử đang được quan tâm và ứng dụng để xác định tác nhân gây bệnh và các kiểu kháng thuốc trong dịch tiết đường hô hấp. Các kỹ thuật này có thể cung cấp kết quả nhanh chóng và chính xác hơn so với các phương pháp truyền thống như nuôi cấy vi sinh vật.

Cách điều trị viêm phổi bệnh viện

Thuốc kháng sinh được lựa chọn theo kinh nghiệm có tác dụng giúp chống lại những vi khuẩn kháng thuốc. Nếu nghi ngờ người bệnh bị viêm phổi bệnh viện, phương pháp điều trị bằng kháng sinh được chỉ định theo kinh nghiệm dựa trên các yếu tố nguy cơ của người bệnh với những tác nhân gây bệnh kháng kháng sinh, nhuộm gram mẫu đờm chất lượng tốt,…

Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ và Hiệp hội Lồng ngực Hoa Kỳ đã dùng những tiêu chí rộng để xác định quần thể có nguy cơ bị nhiễm trùng các tác nhân gây bệnh kháng kháng sinh, khiến phần lớn người bệnh viêm phổi mắc tại bệnh viện cần chữa trị bằng kháng sinh phổ rộng cho MRSA và Pseudomonas kháng thuốc.

Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA) và Hiệp hội Lồng ngực Hoa Kỳ (ATS) khuyến cáo rằng khi có thể, nên sử dụng phổ kháng sinh kinh nghiệm hẹp hơn để giảm thiểu nguy cơ kháng thuốc và tối ưu hóa điều trị. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc quản lý viêm phổi bệnh viện (HAP), nơi các vi khuẩn kháng thuốc có thể phát triển do sự tiếp xúc với nhiều loại kháng sinh khác nhau.

Đối với những trường hợp viêm phổi mắc tại bệnh viện mà không có dấu hiệu gia tăng nguy cơ nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh, và với các điều kiện cụ thể như tỷ lệ mắc MRSA < 20% (các chủng S. aureus) và tỷ lệ kháng P. aeruginosa < 10% với các kháng sinh chống Pseudomonas thường dùng theo kinh nghiệm, có thể xem xét sử dụng các kháng sinh sau: Meropenem Imipenem Cefepime Levofloxacin Piperacillin/tazobactam Tuy nhiên, việc lựa chọn kháng sinh cần phải được điều chỉnh dựa trên các yếu tố cụ thể của từng bệnh nhân và cơ sở y tế.

viêm phổi mắc phải tại bệnh viện sử dụng một số loại thuốc
Bác sĩ có thể chỉ định cho người bệnh viêm phổi mắc phải tại bệnh viện sử dụng một số loại thuốc.

Trong những bối cảnh chữa trị có tỷ lệ MRSA > 20%, bác sĩ có thể chỉ định dùng thêm linezolid hoặc vancomycin. Ở những người bệnh có yếu tố nguy cơ nhiễm các vi khuẩn kháng kháng sinh hoặc không có kháng sinh đồ tại chỗ đáng tin cậy, khuyến cáo chữa trị bao gồm liệu pháp 3 thuốc, cụ thể là dùng 2 loại kháng sinh có hoạt tính chống Pseudomonas và 1 loại kháng sinh có hoạt tính chống MRSA:

  • Một loại cephalosporin kháng khuẩn pseudomonas (ceftazidime hoặc cefepime) hoặc một loại carbapenem kháng khuẩn pseudomonas (meropenem, imipenem) hoặc một chất ức chế beta-lactam/beta-lactamase (tazobactam/piperacillin).
  • Một loại fluoroquinolon chống pseudomonas (levofloxacin hoặc ciprofloxacin) hoặc một loại aminoglycoside (tobramycin, gentamicin, amikacin).
  • Vancomycin hoặc linezolid.

Trong khi việc dùng kháng sinh bừa bãi là yếu tố chính gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh, thì việc dùng đủ kháng sinh theo kinh nghiệm ban đầu là yếu tố chính để quyết định kết quả thuận lợi.

Thế nên, việc chữa trị phải bắt đầu bằng việc dùng kháng sinh phổ rộng ban đầu, đặc biệt là ở những người bệnh có triệu chứng nhiễm trùng huyết hoặc sốc nhiễm trùng huyết. Người bệnh viêm phổi mắc tại bệnh viện được đánh giá lại sau 2 – 3 ngày kể từ lúc bắt đầu chữa trị, sau đó tiến hành đổi kháng sinh thành phác đồ hẹp nhất có thể dựa trên đáp ứng lâm sàng và kết quả nuôi cấy, xét nghiệm độ nhạy cảm với kháng sinh.

Phòng ngừa viêm phổi bệnh viện

Để ngăn ngừa bệnh viêm phổi mắc phải tại bệnh viện cần thực hiện những phương pháp phối hợp chặt chẽ để mang đến hiệu quả cao.

Ví dụ như: tổ chức tập huấn, đào tạo chuyên môn, tiến hành kiểm tra, giám sát; thực hiện khử khuẩn, tiệt khuẩn những dụng cụ hỗ trợ hô hấp; ngăn ngừa lây nhiễm do nhân viên y tế, chăm sóc người bệnh hôn mê đúng cách để giúp ngăn ngừa chứng viêm phổi do hít phải mầm bệnh; chăm sóc người bệnh có tiến hành đặt nội khí quản, mở khí quản, có thông khí nhân tạo hỗ trợ khác đúng kỹ thuật; người bệnh trong thời gian hậu phẫu cần được chăm sóc đường hô hấp thật tốt…

Dù có nhiều phương pháp cần phối hợp thực hiện để mang đến hiệu quả tốt như đã đề cập ở trên nhưng cũng có những biện pháp chính cần lưu ý để ngăn ngừa chứng viêm phổi bệnh viện, bao gồm:

  • Vệ sinh tay sạch sẽ trước và sau khi tiếp xúc với người bệnh hay bất kỳ dụng cụ hô hấp nào đang được dùng cho người bệnh.
  • Vệ sinh răng miệng cho người bệnh bằng bàn chải ngày 2 lần hoặc bằng gạc mỗi 2 – 4 giờ/lần bằng dung dịch khử khuẩn.
  • Cho người bệnh nằm ở tư thế đầu cao góc 30 – 45 độ nếu không có chống chỉ định.
  • Dùng loại dụng cụ chăm sóc hô hấp sử dụng một lần hoặc dụng cụ sử dụng lại đã được khử khuẩn, tiệt khuẩn mức độ cao.
  • Rút ống nuôi ăn, ống mở khí quản, ống nội khí quản, xem xét việc dừng sử dụng máy thở cho người bệnh càng sớm càng tốt khi được chỉ định.
  • Kiểm tra thường xuyên tình trạng ứ đọng ở dạ dày trước khi cho người bệnh ăn qua ống.
  • Nên thường xuyên kiểm tra cũng như đổ nước tồn lưu trong ống dây máy thở, bẫy nước dùng cho người bệnh.
  • Phải để dây thở ở vị trí thấp hơn phần trên của ống nội khí quản.
  • Cần tiến hành giám sát, phản hồi những trưởng hợp bị viêm phổi mắc phải tại bệnh viện để có thống kê báo cáo đầy đủ, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm.
Cần vệ sinh tay trước và sau khi tiếp xúc với người bệnh
Cần vệ sinh tay trước và sau khi tiếp xúc với người bệnh hay dụng cụ hô hấp đang được dùng cho người bệnh để ngăn ngừa chứng viêm phổi bệnh viện.

Địa chỉ khám bệnh viêm phổi uy tín

Hệ thống PlinkCare là địa chỉ uy tín, chuyên thăm khám, chẩn đoán, chữa trị nhiều bệnh lý hô hấp, trong đó có chứng viêm phổi nói chung hay viêm phổi mắc tại bệnh viện nói riêng.

Bệnh viện quy tụ đội ngũ chuyên gia, bác sĩ đầu ngành, nhiều năm kinh nghiệm, giỏi chuyên môn, được trang bị nhiều thiết bị, máy móc tân tiến, chẳng hạn như: máy đo đa ký hô hấp NOX A1, T3S, máy đo chức năng hô hấp KoKo 1000, máy chụp cắt lớp vi tính 1975 lát cắt đồng bộ chính hãng duy nhất tại Việt Nam, hệ thống X-quang kỹ thuật số treo trần cao cấp GXR-52SD…

Để đặt lịch thăm khám, điều trị bệnh tại Hệ thống PlinkCare, Quý khách vui lòng liên hệ:

Chứng viêm phổi bệnh viện có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh, làm gia tăng nguy cơ tử vong. Người có triệu chứng bị viêm phổi mắc phải tại bệnh viện cần được thăm khám, chẩn đoán, điều trị sớm.

Tư vấn

close
  • smart_toy

    Chào bạn 👋
    Tôi có thể giúp gì cho bạn?

send