Image

Ung thư vú khi mang thai (có bầu) là gì? Chẩn đoán và điều trị

Ung thư vú khi mang thai (có bầu) là gì?

Ung thư vú khi mang thai (có bầu) hay ung thư vú liên quan đến thai kỳ (PABC) là ung thư vú được phát hiện trong khi phụ nữ đang mang thai hoặc trong thời gian cho con bú. Ung thư vú khi mang thai không phổ biến, bệnh chỉ phát hiện ở khoảng 1/3000 phụ nữ mang thai.

Tuy nhiên, loại ung thư này phổ biến nhất trong thai kỳ. Nếu phụ nữ mang thai hoặc trong giai đoạn đang cho con bú tìm thấy một khối u hoặc nhận thấy bất kỳ thay đổi nào ở ngực khiến bạn lo lắng, hãy đi khám ngay bác sĩ chuyên về bệnh tuyến vú.

Yếu tố rủi ro ung thư vú thai kỳ

Yếu tố rủi ro ung thư vú thai kỳ là bệnh sẽ khó phát hiện hơn khi người bệnh đang mang thai hoặc trong giai đoạn cho con bú. Bởi, khi mang thai nồng độ hormone thay đổi khiến ngực cũng biến đổi như vú có thể to hơn, sần sùi hoặc mềm hơn. Điều này khiến người bệnh và bác sĩ khó phát hiện khối u do ung thư gây ra; đến khi có kích thước khá lớn.

Một lý do khác khiến bác sĩ khó phát hiện ung thư vú sớm trong thai kỳ là nhiều phụ nữ trì hoãn việc tầm soát ung thư vú bằng chụp X-quang tuyến vú (chụp nhũ ảnh). Khi mang thai và cho con bú, phụ nữ chụp X-quang tuyến vú có thể làm cho mô vú dày đặc hơn khiến việc phát hiện ung thư sớm trên chụp X-quang tuyến vú trở nên khó khăn hơn.

Vì vậy, khi phụ nữ mang thai phát triển ung thư vú, bệnh thường được chẩn đoán ở giai đoạn trễ hơn so với những phụ nữ không mang thai và nhiều khả năng đã lan đến các hạch bạch huyết.

Chẩn đoán ung thư vú khi mang thai thế nào?

Ung thư vú khi mang thai có thể khiến việc phát hiện, chẩn đoán ung thư vú khi mang thai và điều trị bệnh trở nên khó khăn hơn. Hầu hết, các nghiên cứu đều phát hiện kết quả mắc bệnh ung thư vú ở phụ nữ mang thai và không mang thai đều như nhau với các bệnh ung thư được phát hiện ở cùng một giai đoạn.

Nếu người bệnh phát hiện thấy một khối u hoặc những thay đổi khác ở ngực khiến bạn lo lắng, đừng bỏ qua chúng. Người bệnh hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức. Bất kỳ thay đổi đáng ngờ nào ở vú đều cần được kiểm tra hoặc thậm chí làm sinh thiết trước khi cho rằng khối u trong ngực là do bọc sữa, phản ứng bình thường khi mang thai.

Cùng với khám lâm sàng chuyên khám vú, bác sĩ có thể sử dụng một số loại xét nghiệm hình ảnh để tìm những bất thường ở vú nếu cần. Thông thường, người bệnh có thể siêu âm, chụp X-quang tuyến vú và sinh thiết tổn thương trong vú, đặc biệt nếu xét nghiệm hình ảnh cho thấy phát hiện đáng ngờ.

Ung thư vú thai kỳ
Siêu âm vú là xét nghiệm dễ thực hiện nên thường được dùng để chẩn đoán ung thư vú khi mang thai đầu tiên.

1. Siêu âm vú

Siêu âm vú là xét nghiệm dễ thực hiện nên thường được dùng để chẩn đoán đầu tiên. Phương pháp này được sử dụng để đánh giá sự thay đổi ở vú (chẳng hạn như khối u) trong thai kỳ.

2. Chụp X-quang tuyến vú

Mối quan tâm chính với bất kỳ xét nghiệm hình ảnh nào trong thai kỳ là liệu nó có khiến thai nhi đang phát triển tiếp xúc với bức xạ hay không, điều này có thể gây hại, đặc biệt trong 3 tháng đầu.

Chụp X-quang tuyến vú có thể phát hiện hầu hết các bệnh ung thư vú khi mang thai và thường được cho là an toàn khi chụp X-quang tuyến vú trong thời kỳ mang thai. Lượng bức xạ cần thiết cho chụp quang tuyến vú là nhỏ và bức xạ tập trung vào ngực nên phần lớn không đến được các bộ phận khác của cơ thể.

Để bảo vệ thai nhi, bác sĩ sẽ đặt tấm chắn chì ở phần dưới bụng để ngăn bức xạ đến tử cung. Tuy nhiên, một lượng nhỏ phóng xạ có thể đến thai nhi và các nhà khoa học không thể chắc chắn về tác động với thai nhi.

3. Chụp cộng hưởng từ (MRI)

Chụp cộng hưởng từ (MRI) không sử dụng bức xạ. Tuy nhiên, chụp MRI vú thường yêu cầu tiêm chất tương phản gọi là gadolinium vào máu để có được hình ảnh hữu ích. Tuy nhiên, chất tương phản này có thể đi qua nhau thai (cơ quan kết nối mẹ với thai nhi) và liên quan đến những bất thường của thai nhi ở động vật thí nghiệm. Vì vậy, bác sĩ thường khuyên không dùng MRI vú khi mang thai, nhưng được thực hiện MRI vú trong giai đoạn cho con bú nếu có chỉ định.

4. Sinh thiết vú khi mang thai

Nếu một khối u vú mới hoặc kết quả xét nghiệm hình ảnh bất thường làm tăng mối lo ngại về sự thay đổi ở vú có thể là ung thư, bác sĩ thường sinh thiết để chẩn đoán bệnh. Trong quá trình sinh thiết, các mảnh mô vú nhỏ sẽ được lấy ra khỏi vùng cần quan tâm.

Kỹ thuật sinh thiết vú phổ biến nhất là sinh thiết lõi kim, sử dụng kim rỗng để loại bỏ các mảnh mô vú. Việc này thường được thực hiện như một thủ tục ngoại trú, ngay cả khi bạn đang mang thai. Thông thường, thuốc gây tê (gây tê cục bộ) được sử dụng để làm tê chỉ vùng vú cần thực hiện sinh thiết nên ít gây nguy hiểm cho thai nhi khi tiến hành chẩn đoán tình trạng ung thư vú khi mang thai.

Nếu sinh thiết kim lõi không đưa ra kết quả rõ ràng, bước tiếp theo bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết phẫu thuật. Với loại sinh thiết này, mảnh mô vú lớn hơn sẽ được lấy ra thông qua vết cắt nhỏ (vết mổ) ở vú. Sinh thiết phẫu thuật thường được thực hiện dưới hình thức gây tê, hiếm khi gây mê toàn thân nên ít ảnh hưởng thai nhi.

5. Xét nghiệm hình ảnh để xác định giai đoạn ung thư vú

Nếu phát hiện ung thư vú khi mang thai, người bệnh cần các xét nghiệm khác để tìm hiểu mức độ di căn của tế bào ung thư trong vú hoặc các bộ phận khác của cơ thể hay không. Các xét nghiệm xác định độ lan rộng của ung thư khác nhau sẽ cần thiết, tùy thuộc vào tình trạng bệnh của người bệnh.

Như vậy, siêu âm không sử dụng bức xạ và an toàn khi mang thai. Chụp X-quang ngực đôi khi cần để đưa ra quyết định điều trị. Bác sĩ sử dụng một lượng nhỏ bức xạ vẫn đảm bảo an toàn khi người bệnh mang thai, miễn bụng được che chắn để tạo ra hình ảnh.

Các xét nghiệm khác như quét PET CT, quét xạ hình xương và chụp cắt lớp vi tính (CT) có nhiều khả năng khiến bào thai tiếp xúc với bức xạ hơn. Những xét nghiệm này thường không cần thiết để xác định giai đoạn ung thư vú, đặc biệt nếu ung thư giai đoạn sớm chỉ ở trong tuyến vú. Nếu cần thực hiện một trong những xét nghiệm này, bác sĩ có thể điều chỉnh để hạn chế lượng phóng xạ tiếp xúc với thai nhi, giải thích kỹ lợi ích và nguy cơ của xét nghiệm.

Nếu bạn được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú khi đang mang thai, các lựa chọn điều trị của bạn sẽ phức tạp hơn vì bạn sẽ muốn có được phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh ung thư của mình đồng thời bảo vệ em bé. Loại điều trị và thời gian điều trị phải được lên kế hoạch cẩn thận và có sự phối hợp giữa các bác sĩ chăm sóc bệnh ung thư và bác sĩ sản khoa.

Phương pháp điều trị ung thư vú thai kỳ

Phương pháp điều trị ung thư vú có thể gây hại cho em bé và không an toàn khi mang thai. Nếu những phương pháp điều trị này cần thiết, chúng thường được lên lịch sau khi em bé chào đời.

Khi điều trị cho phụ nữ mang thai mắc ung thư vú, mục tiêu cũng giống như khi điều trị cho phụ nữ không mang thai: chữa khỏi bệnh ung thư bất cứ khi nào có thể hoặc kiểm soát và giữ cho nó không lây lan nếu không thể chữa khỏi. Nhưng mối quan tâm thêm về việc bảo vệ thai nhi đang phát triển có thể khiến việc điều trị trở nên phức tạp hơn.

Một số phương pháp điều trị ung thư vú khi mang thai, bao gồm:

ung thư vú khi có bầu
Loại phẫu thuật mà người bệnh ung thư vú khi mang thai được thực hiện phụ thuộc vào mức độ và thời điểm ung thư được chẩn đoán trong thai kỳ.

1. Phẫu thuật

Phẫu thuật để loại bỏ ung thư ở vú và các hạch bạch huyết lân cận rất quan trọng trong điều trị cho bất kỳ phụ nữ nào ung thư vú giai đoạn đầu và an toàn trong thai kỳ.

Các phương pháp phẫu thuật ung thư vú, bao gồm:

  • Cắt bỏ toàn bộ vú (phẫu thuật cắt bỏ vú).
  • Chỉ loại bỏ phần chứa ung thư (phẫu thuật cắt bỏ khối u hoặc phẫu thuật bảo tồn vú).

Loại phẫu thuật mà người bệnh được thực hiện sẽ phụ thuộc vào mức độ và thời điểm ung thư được chẩn đoán trong thai kỳ.

Ngoài việc cắt bỏ khối u ở vú, bác sĩ cũng loại bỏ một hoặc nhiều hạch bạch huyết ở vùng nách (hạch nách) để kiểm tra mức độ lan rộng của ung thư bằng cách bóc tách hạch nách (ALND). Đây thường là quy trình tiêu chuẩn dành cho phụ nữ mang thai mắc ung thư vú và loại bỏ nhiều hạch bạch huyết dưới cánh tay.

Một phẫu thuật khác được gọi là sinh thiết hạch bạch huyết trọng điểm (SLNB), người bệnh có thể lựa chọn tùy thuộc vào thời gian mang thai và giai đoạn ung thư. Bác sĩ dùng phương pháp sinh thiết hạch bạch huyết trọng điểm (SLNB) sẽ loại bỏ ít hạch hơn. Tuy nhiên, phương pháp này lo ngại về ảnh hưởng của thuốc nhuộm SLNB với em bé.

Vì vậy, hầu hết các chuyên gia đều khuyến nghị chỉ sử dụng SLNB trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn như ở giai đoạn cuối của thai kỳ và không được sử dụng thuốc nhuộm màu xanh lam trong suốt quá trình thực hiện.

Ngoài ra, tùy thuộc vào giai đoạn ung thư vú khi mang thai, người bệnh có thể cần điều trị hỗ trợ như hóa trị, xạ trị, liệu pháp hormone hoặc liệu pháp nhắm mục tiêu sau phẫu thuật để giúp giảm nguy cơ ung thư tái phát. Ngoài hoá trị điều trị này có thể được trì hoãn cho đến sau khi sinh.

1.1 Trong ba tháng đầu tiên (12 tuần đầu tiên)

Người bệnh thường có nhiều khả năng được đề nghị phẫu thuật cắt bỏ vú trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Xạ trị thường cần thiết sau phẫu thuật bảo tồn vú. Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ phẫu thuật cắt bỏ vú đều cần xạ trị. Bởi, xạ trị thường không được khuyến khích vào bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ vì nguy cơ bức xạ nhỏ với em bé.

1.2 Trong tam cá nguyệt thứ hai (13 – 27 tuần)

Nếu người bệnh được chẩn đoán đang ở tam cá nguyệt thứ hai, bác sĩ có thể chọn phẫu thuật bảo tồn vú và sẽ hóa trị sau phẫu thuật. Đồng thời, xạ trị sẽ được thực hiện sau khi quá trình hóa trị kết thúc và sau khi em bé được sinh ra.

1.3 Trong tam cá nguyệt thứ ba (28 tuần trước khi sinh)

Nếu người bệnh đang ở trong tam cá nguyệt thứ ba, phẫu thuật bảo tồn vú có thể được lựa chọn vì xạ trị có thể được thực hiện sau khi em bé chào đời. Người bệnh sẽ cần gây mê toàn thân để đảm bảo an toàn khi bạn đang mang thai dù có rất ít nguy cơ sảy thai trong thời kỳ đầu mang thai.

Với, tái tạo vú tại thời điểm phẫu thuật (tái tạo tức thì) thường không được thực hiện trong thời kỳ mang thai. Điều này sẽ khiến người bệnh nguy cơ chảy máu cao hơn khi mang thai và giảm thiểu thời gian gây mê toàn thân. Việc tái tạo vú thường sẽ được thực hiện muộn hơn hay còn gọi tái tạo trì hoãn.

2. Hóa trị

Hóa trị có thể được sử dụng để điều trị bổ trợ sau phẫu thuật cho một số giai đoạn sớm của bệnh ung thư vú. Hóa trị cũng có thể được sử dụng riêng cho các bệnh ung thư tiến triển hơn.

Hóa trị không được thực hiện trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Bởi, phần lớn sự phát triển của em bé diễn ra trong thời gian này nên sự an toàn của hóa trị chưa được nghiên cứu trong 3 tháng đầu tiên. Trong thời gian này, người bệnh có nguy cơ sảy thai cũng lớn nhất.

Trong nhiều năm, người ta cho rằng tất cả các phương pháp hóa trị đều sẽ gây hại cho thai nhi bất kể thời điểm hóa trị.

Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra một số loại thuốc hóa trị (chẳng hạn như doxorubicin, cyclophosphamide, fluorouracil và taxan) được sử dụng trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba (tháng thứ 4 đến tháng thứ 9 của thai kỳ) không làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, thai chết lưu hoặc sức khỏe vấn đề ngay sau khi sinh, dù thuốc có thể làm tăng nguy cơ sinh non. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa biết liệu những em bé này có ảnh hưởng lâu dài hay không. [2]

Nếu, người bệnh ung thư vú giai đoạn đầu và bạn cần hóa trị sau phẫu thuật (hóa trị bổ trợ), việc điều trị thường sẽ trì hoãn đến ít nhất trong tam cá nguyệt thứ hai. Nếu bạn đã ở trong tam cá nguyệt thứ ba khi phát hiện ung thư, hóa trị có thể trì hoãn cho đến sau khi sinh. Việc sinh nở có thể được thực hiện sớm vài tuần ở một số phụ nữ. Những kế hoạch điều trị tương tự này cũng có thể được sử dụng cho những phụ nữ mắc bệnh ung thư giai đoạn trễ hơn.

Hóa trị thường không được khuyến khích sau 35 tuần mang thai hoặc trong vòng 3 tuần sau sinh; vì nó có thể làm giảm số lượng tế bào máu của người mẹ. Điều này có thể gây chảy máu và tăng nguy cơ nhiễm trùng khi sinh. Việc trì hoãn hóa trị trong vài tuần cuối cùng trước khi sinh sẽ giúp lượng máu của người mẹ trở lại bình thường trước khi sinh.

3. Xạ trị

Xạ trị ở vú thường được sử dụng sau phẫu thuật bảo tồn vú (cắt bỏ khối u) giúp giảm nguy cơ ung thư tái phát. Tuy nhiên, liều lượng bức xạ cao được sử dụng cho mục đích này có thể gây hại cho em bé bất cứ lúc nào trong thai kỳ như sảy thai, dị tật bẩm sinh, thai nhi chậm phát triển hoặc nguy cơ mắc bệnh ung thư ở trẻ em cao hơn. Vì vậy, bác sĩ không sử dụng phương pháp điều trị bằng bức xạ trong thời kỳ mang thai.

Phụ nữ được phát hiện ung thư trễ hơn trong thai kỳ có thể phẫu thuật cắt bỏ khối u trong thời kỳ mang thai và sau đó đợi đến khi em bé chào đời mới được xạ trị. Phương pháp điều trị ung thư vú khi mang thai này chưa được nghiên cứu kỹ, việc người bệnh chờ đợi quá lâu để bắt đầu xạ trị có thể làm tăng nguy cơ ung thư quay trở lại.

4. Liệu pháp hormone

Liệu pháp hormone thường được sử dụng để điều trị sau phẫu thuật hoặc điều trị ung thư vú giai đoạn trễ ở những phụ nữ ung thư vú dương tính với thụ thể hormone estrogen hoặc progesterone. Các loại thuốc trị liệu bằng nội tiết tố được sử dụng cho bệnh ung thư vú bao gồm tamoxifen, anastrozole, letrozole và exemestane.

Tuy nhiên, liệu pháp hormone không nên dùng trong thời kỳ mang thai vì có thể ảnh hưởng đến em bé. Việc này nên được trì hoãn cho đến sau khi người phụ nữ sinh con.

5. Liệu pháp nhắm mục tiêu

Các loại thuốc nhắm mục tiêu HER2, chẳng hạn như trastuzumab (Herceptin), pertuzumab (Perjeta), ado-trastuzumab emtansine (Kadcyla) và lapatinib (Tykerb) rất quan trọng trong điều trị ung thư vú dương tính với HER2.

Ở những phụ nữ không mang thai, trastuzumab được sử dụng như một phần của phương pháp điều trị sau phẫu thuật, pertuzumab được sử dụng cùng với trastuzumab trước khi phẫu thuật và tất cả các loại thuốc này đều có thể hữu ích trong việc điều trị ung thư giai đoạn muộn.

Tuy nhiên, không có loại thuốc nào trong số này an toàn cho em bé nếu dùng điều trị cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai. Everolimus (Afinitor) và palbociclib (Ibrance) cũng là thuốc nhắm mục tiêu có thể được sử dụng cùng với liệu pháp hormone để điều trị ung thư vú tiến triển. Một lần nữa, những loại thuốc này và các loại thuốc nhắm mục tiêu khác cũng không an toàn khi sử dụng trong thai kỳ.

Điều trị ung thư vú khi mang thai có an toàn không?

Điều trị ung thư vú khi mang thai an toàn. Tuy nhiên, phụ nữ đang mang thai và ung thư vú có thể đưa ra những lựa chọn khó khăn. Vì vậy, người bệnh hãy nhờ bác sĩ khoa Ngoại Vú tư vấn để hiểu và nắm được tất cả các lựa chọn của mình.

Các phương pháp điều trị được sử dụng và thời gian điều trị có thể bị ảnh hưởng bởi thai kỳ. Khi phụ nữ đang mang thai và được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, bác sĩ đưa ra các khuyến nghị điều trị phụ thuộc vào:

  • Kích thước của khối u.
  • Vị trí khối u.
  • Kiểm tra tình trạng và độ lan rộng của ung thư.
  • Bạn đã trải qua bao lâu trong thai kỳ.
  • Sức khỏe tổng thể.
  • Sở thích cá nhân.

Nhìn chung, việc phẫu thuật điều trị ung thư vú khi mang thai an toàn.Hóa trị có vẻ an toàn cho em bé nếu được thực hiện trong 3 tháng thứ 2 hoặc thứ 3 của thai kỳ, nhưng nó không an toàn trong 3 tháng đầu. Các phương pháp điều trị ung thư vú khác chẳng hạn như liệu pháp hormone, liệu pháp nhắm mục tiêu và xạ trị có nhiều khả năng gây hại cho em bé và thường không được thực hiện trong thời kỳ mang thai.

Các lựa chọn điều trị sẽ trở nên phức tạp nếu có sự mâu thuẫn giữa phương pháp điều trị tốt nhất dành cho người mẹ và sức khỏe của em bé. Ví dụ, nếu phụ nữ phát hiện mắc bệnh ung thư vú ở giai đoạn đầu của thai kỳ và cần hóa trị ngay lập tức. Giai đoạn này, thai phụ có thể được khuyên nên nghĩ đến việc chấm dứt thai kỳ và cần chuyên gia tâm lý hỗ trợ tinh thần.

Một số nghiên cứu cũ cho thấy việc chấm dứt thai kỳ để điều trị ung thư vú khi mang thai không cải thiện tiên lượng của phụ nữ. Dù có những sai sót trong các nghiên cứu này, nhưng việc chấm dứt thai kỳ không còn được khuyến khích thường xuyên khi phát hiện ung thư vú.

Tuy nhiên, lựa chọn này có thể được thảo luận khi xem xét tất cả các lựa chọn điều trị hiện có, đặc biệt với các bệnh ung thư di căn (giai đoạn IV) hoặc ung thư ác tính có thể cần điều trị ngay lập tức, chẳng hạn như ung thư vú dạng viêm. [3]

Rủi ro biến chứng ung thư vú ở phụ nữ mang thai

Một số bác sĩ tin rằng việc chấm dứt thai kỳ có thể giúp làm chậm quá trình phát triển của bệnh ung thư vú giai đoạn nặng hơn và có thể khuyến nghị điều này với một số phụ nữ mắc bệnh ung thư vú giai đoạn nặng.

Thật khó để thực hiện nghiên cứu trong lĩnh vực này và không tồn tại những nghiên cứu tốt, khách quan. Chấm dứt thai kỳ làm cho việc điều trị trở nên đơn giản hơn, nhưng cho đến nay không có bằng chứng nào cho thấy việc chấm dứt thai kỳ giúp cải thiện khả năng sống sót chung hoặc kết quả ung thư của người phụ nữ.

Các nghiên cứu cũng không chỉ ra việc trì hoãn điều trị đôi khi cần thiết trong thời kỳ mang thai và không ảnh hưởng đến kết quả điều trị ung thư vú. Điều này cũng được chứng minh là lĩnh vực khó nghiên cứu. Cuối cùng, không có báo cáo nào cho thấy bản thân ung thư vú có thể gây hại cho em bé.

Hầu hết các bác sĩ đều khuyến cáo những phụ nữ vừa sinh con và sắp điều trị ung thư vú nên ngừng (hoặc không bắt đầu) cho con bú. Nhiều loại thuốc hóa trị, hormone và liệu pháp nhắm mục tiêu có thể đi vào sữa mẹ và truyền sang em bé.

Không nên cho con bú nếu người bệnh đang được điều trị bằng thuốc toàn thân và không nên bắt đầu lại trong nhiều tháng sau khi điều trị tình trạng ung thư vú khi mang thai kết thúc. Đôi khi, phụ nữ ung thư vú dương tính với hormone có thể được cho dùng thuốc để ngừng sản xuất sữa.

Nếu có kế hoạch phẫu thuật vú, việc ngừng cho con bú sẽ giúp giảm lưu lượng máu đến ngực và khiến chúng nhỏ hơn. Điều này giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng vú.

Nếu bạn có thắc mắc, chẳng hạn như khi nào bắt đầu cho con bú sữa mẹ an toàn, hãy trao đổi với bác sĩ. Nếu bạn dự định bắt đầu cho con bú sau khi đã dừng một thời gian, hãy lên kế hoạch trước. Các chuyên gia về nuôi con bằng sữa mẹ (cho con bú) có thể giúp đỡ thêm nếu bạn cần.

Khả năng sinh sản trong tương lai sau điều trị

Người bệnh có thể mang thai trở lại rất sớm sau khi sinh con, ngay cả khi đang cho con bú và kinh nguyệt chưa quay trở lại. Người bệnh có thể thảo luận với bác sĩ về biện pháp tránh thai sau khi sinh con. Bác sĩ thường sẽ đề xuất các phương pháp tránh thai như sử dụng bao cao su. Thuốc tránh thai không được khuyến cáo cho những phụ nữ ung thư vú vì có chứa hormone.

ung thư vú trong thai kỳ
Không có bằng chứng nào cho thấy việc mắc bệnh ung thư vú khi mang thai ảnh hưởng đến sự phát triển của em bé trong bụng mẹ.

Ngoài ra, người bệnh có thể sử dụng dụng cụ tử cung (DCTC hoặc cuộn dây) miễn không phải loại giải phóng hormone. Vòng tránh thai có thể được đặt trong vòng 48 giờ sau khi sinh. Nếu không được đưa vào trong vòng 48 giờ, bạn sẽ được khuyên nên đợi đến 4 tuần sau sinh.

Nếu người bệnh vẫn muốn sinh thêm con trong tương lai. Người bệnh hãy thảo luận với bác sĩ ngay khi được chẩn đoán ung thư vú khi mang thai hoặc khi bắt đầu điều trị để hiểu về các lựa chọn khả thi giúp bảo tồn khả năng sinh sản.

Chăm sóc người bị ung thư vú khi có thai

Để chăm sóc người bệnh ung thư vú khi mang thai, bác sĩ có thể giới thiệu người bệnh đến một nhóm điều trị ung thư vú có chuyên môn về điều trị cho những phụ nữ được chẩn đoán trong thời kỳ mang thai. Các nhóm chăm sóc người bệnh ung thư vú khi có thai bao gồm các chuyên gia về ung thư, bác sĩ sản khoa và nữ hộ sinh.

Phẫu thuật điều trị ung thư vú thường ít gây nguy hiểm cho em bé. Tuy nhiên, việc chăm sóc thai sản phải được thực hiện bởi bác sĩ sản khoa và nữ hộ sinh có kinh nghiệm chăm sóc phụ nữ mắc bệnh ung thư khi mang thai.

Ngoài ra, việc mang thai hoặc chăm sóc em bé mới sinh trong khi đang điều trị ung thư vú khiến người bệnh kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, người bệnh hãy nói chuyện với những người gần gũi về cảm giác và chấp nhận mọi lời đề nghị hỗ trợ và giúp đỡ thiết thực. Người bệnh cũng có thể nói chuyện với nhóm điều trị hoặc nữ hộ sinh nếu cảm thấy quá tải hoặc có bất kỳ lo lắng nào.

Câu hỏi thường gặp về ung thư vú thai kỳ

1. Gây mê có an toàn khi mang thai không?

Một số thời điểm nhất định trong thai kỳ, việc gây mê để phẫu thuật có thể gây nguy hiểm cho em bé. Bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ gây mê cùng với bác sĩ sản khoa (OB) có nguy cơ cao sẽ cần phải làm việc cùng nhau nhằm quyết định thời điểm tốt nhất trong thai kỳ để phẫu thuật.

Nếu phẫu thuật được thực hiện trễ hơn trong thai kỳ, bác sĩ sản khoa có thể có mặt đề phòng trường hợp có bất kỳ vấn đề gì với em bé trong quá trình phẫu thuật. Ngoài ra, các bác sĩ sẽ cùng nhau quyết định loại thuốc và kỹ thuật gây mê nào an toàn nhất cho cả người bệnh và em bé.

2. Mang thai có ảnh hưởng đến điều trị ung thư vú không?

Mang thai có ảnh hưởng đến điều trị ung thư vú. Việc phát hiện ung thư vú khi mang thai có thể khó khăn hơn. Nói cách khác, người bệnh có sự chậm trễ trong chẩn đoán và ung thư có thể đã phát hiện ở giai đoạn sau. Tuy nhiên, không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy ung thư vú khi mang thai nguy hiểm hơn ung thư vú vào những thời điểm khác.

3. Ung thư vú có thể lây sang em bé không?

Ung thư vú chưa bao giờ được phát hiện lây lan từ mẹ sang thai nhi. Một số ít trường hợp, ung thư đã đến được nhau thai thông cơ quan kết nối mẹ với thai nhi. Điều này có thể ảnh hưởng đến lượng dinh dưỡng mà thai nhi nhận được từ mẹ.

4. Ung thư vú có ảnh hưởng đến em bé không?

Không có bằng chứng nào cho thấy việc mắc bệnh ung thư vú khi mang thai ảnh hưởng đến sự phát triển của em bé trong bụng mẹ. Bạn không thể truyền bệnh ung thư sang con. Đồng thời, không có bằng chứng nào cho thấy con bạn bị ung thư sau này vì bạn mắc ung thư vú khi đang mang thai.

Khoa Ngoại Vú, PlinkCare TP.HCM quy tụ các chuyên gia, bác sĩ giàu kinh nghiệm, liên tục cập nhật phương pháp điều trị mới trên thế giới giúp tầm soát ung thư vú, chẩn đoán sớm ung thư vú, lên kế hoạch điều trị toàn diện, hiệu quả và rút ngắn thời gian đáng kể. Đặc biệt, người bệnh có thể chia sẻ những khó khăn lo lắng với các thành viên trong “CLB bệnh nhân ung thư vú bệnh viện Tâm Anh“.

Ung thư vú khi mang thai không phổ biến lắm nên người bệnh có thể cảm thấy cô đơn vào thời điểm này. Người bệnh hãy chia sẻ cảm xúc của mình với những người khác cũng có trải nghiệm tương tự như bạn tại nhóm “CLB bệnh nhân ung thư vú bệnh viện Tâm Anh”.

Tư vấn

close
  • smart_toy

    Chào bạn 👋
    Tôi có thể giúp gì cho bạn?

send