
Ung thư cổ tử cung có lây không? Bệnh có thể lây qua đường nào?
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi BS Nguyễn Như Điền – Quản lý Y khoa vùng 5 – miền Bắc, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC
BS Nguyễn Như Điền – Quản lý Y khoa vùng 5 – miền Bắc, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho biết: “Ung thư cổ tử cung là một mối lo ngại lớn đối với sức khỏe phụ nữ. Mặc dù bệnh không lây trực tiếp, nhưng HPV – virus gây bệnh hàng đầu lại có thể lây truyền qua nhiều con đường trực tiếp, gián tiếp và âm thầm. Để phòng ngừa hiệu quả nguy cơ ung thư cổ tử cung và các bệnh ung thư, bệnh lý liên quan đến đường sinh dục, việc tiêm vắc xin HPV là rất quan trọng. Bên cạnh đó, nữ giới cũng nên tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ để phát hiện sớm những tổn thương bất thường.”
Ung thư cổ tử cung có lây không?
Bệnh ung thư cổ tử cung không lây truyền từ người này sang người khác. Mặc dù ung thư cổ tử cung không lây nhiễm nhưng HPV – tác nhân hàng đầu có liên quan đến hơn 90% các trường hợp ung thư cổ tử cung thì có thể dễ dàng lây nhiễm. HPV là một loại virus lây truyền chủ yếu qua đường tình dục và có thể gây ra các tổn thương ở cổ tử cung. Nếu các tổn thương này không được phát hiện và điều trị kịp thời, chúng có thể phát triển thành ung thư.
Ung thư cổ tử cung là một bệnh ác tính bắt nguồn từ các tế bào ở cổ tử cung – phần dưới của tử cung nối với âm đạo. Các tế bào này phát triển không kiểm soát và hình thành các khối u, có khả năng xâm lấn các mô xung quanh và di căn đến các cơ quan khác trong cơ thể.
Đây là một bệnh lý phát sinh từ các tế bào bị biến đổi trong cơ thể người bệnh. Do đó, ung thư cổ tử cung không phải là bệnh truyền nhiễm nên hoàn toàn không lây nhiễm từ người này sang người khác qua bất kỳ phương pháp nào như tiếp xúc cơ thể, ho, hắt hơi hay chia sẻ đồ dùng cá nhân.

Bệnh ung thư cổ tử cung lây qua đường nào?
Ung thư cổ tử cung không phải là bệnh truyền nhiễm, do đó, nó không lây qua bất kỳ con đường nào. Tuy nhiên, HPV – loại virus vô cùng nguy hiểm, là tác nhân của hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung thì có thể lây nhiễm. Do đó, ung thư cổ tử cung không lây truyền khi đã mắc bệnh, nhưng nếu đang là HPV thì có thể lây qua các đường sau:
- Quan hệ tình dục: HPV lây nhiễm chủ yếu qua quan hệ tình dục, bao gồm quan hệ tình dục qua đường miệng, đường âm đạo và hậu môn. Bất cứ ai có hoạt động quan hệ tình dục đều có thể bị nhiễm HPV ít nhất 1 lần trong đời, ngay cả khi chỉ có 1 bạn tình.
- Lây qua đường tiếp xúc: HPV có khả năng kháng nhiệt và có thể tồn tại trong điều kiện khô. Do đó, virus có thể lây truyền qua đường tiếp xúc với các dụng cụ cắt móng tay, chân, đồ lót, kim bấm sinh thiết,… có chứa virus. HPV còn có khả năng lây qua tiếp xúc da kề da ở vùng âm hộ, hậu môn, nơi bao cao su không che phủ.
- Lây truyền dọc từ mẹ sang con: Trong một số trường hợp, HPV có thể lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở, song tỷ lệ thấp. Nếu mẹ bầu nhiễm HPV, trẻ sơ sinh có nguy cơ lây nhiễm virus từ mẹ trong quá trình mang thai và sinh con, đặc biệt tỷ lệ trẻ tiếp xúc với virus cao hơn nếu sinh thường.
Mối liên hệ giữa ung thư cổ tử cung và HPV
HPV (Human Papillomavirus) là một trong những nguyên nhân chính gây ra ung thư cổ tử cung. Đây là một loại virus lây truyền qua đường tình dục và có thể gây ra các tổn thương ở cổ tử cung. Nếu các tổn thương này không được phát hiện và điều trị kịp thời, chúng có thể phát triển thành ung thư. (1)
Khi nhiễm HPV, virus này sẽ xâm nhập vào tế bào cổ tử cung và bắt đầu nhân bản. Nếu hệ miễn dịch không thể loại bỏ virus, chúng sẽ gây ra các tổn thương ở cổ tử cung. Các tổn thương do HPV gây ra có thể dẫn đến việc biến đổi các tế bào bình thường thành tế bào ung thư. Quá trình từ khi nhiễm HPV đến khi phát triển thành ung thư thường kéo dài nhiều năm, thậm chí đến 20-30 năm.
Một số loại HPV có khả năng gây ung thư cổ tử cung cao hơn các loại khác. Ví dụ như HPV 16 và HPV 18 được coi là hai loại virus nguy hiểm nhất, liên quan đến phần lớn các trường hợp ung thư cổ tử cung. Theo nghiên cứu, 99,7% trường hợp ung thư cổ tử cung có sự hiện diện của HPV.
Các loại HPV nguy cơ thấp như HPV 6, 11 có thể gây ra mụn cóc sinh dục, sùi mào gà nhưng ít có khả năng gây ung thư. Mặc dù phần lớn các trường hợp nhiễm HPV đều có thể tự đào thải khỏi cơ thể sau 2 năm và hầu hết các tổn thương tiền ung thư tự khỏi, nhưng với những phụ nữ nhiễm HPV nguy cơ cao 16, 18 không thể đào thải ra khỏi cơ thể, virus khả năng cao tiến triển thành ung thư, HPV sẽ làm thay đổi cấu trúc tế bào của cổ tử cung.

Ung thư cổ tử cung có di truyền không?
KHÔNG! Ung thư cổ tử cung không phải là bệnh di truyền. Do đó, ung thư cổ tử cung không di truyền trực tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên, HPV – thủ phạm chính gây ra bệnh, có thể lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh nở. Khi người mẹ nhiễm HPV, virus này có thể truyền sang trẻ qua đường sinh sản, làm tăng nguy cơ trẻ bị nhiễm virus ngay từ khi chào đời. Điều này khiến trẻ có nguy cơ cao hơn khi trưởng thành mắc các bệnh liên quan đến HPV, bao gồm cả ung thư cổ tử cung.

Nguyên nhân ung thư cổ tử cung
Bệnh ung thư cổ tử cung bắt đầu với những thay đổi bất thường ở tế bào cổ tử cung, thường phát triển âm ỉ trong thời gian dài (mất vài năm), thường do nhiễm HPV. Ung thư sinh ra do đột biến DNA (khiếm khuyết gen) làm xuất hiện các gen sinh ung thư hoặc làm vô hiệu quả gen ức chế khối u (gen kiểm soát sự phát triển tế bào, làm cho tế bào chết đúng lúc).
Theo thống kê của WHO, khoảng 99,7% trường hợp ung thư cổ tử cung đều có sự hiện diện của Human Papillomavirus (HPV). Do đó, HPV chính là nguyên nhân chính dẫn đến việc mắc bệnh này ở nữ giới. HPV có hơn 200 chủng khác nhau với khoảng 15 tuýp được xếp vào nhóm nguy cơ cao, dẫn đến khối u ác tính cổ tử cung, phổ biến nhất là tuýp 16 và tuýp 18 (nguyên nhân của hơn 70% trường hợp mắc bệnh ở nữ giới), tiếp đến là tuýp 31 và 45. (2)
Theo các chuyên gia, HPV có 2 loại protein là E6 và E7 có tác dụng tắt một số gen ức chế khối u, từ đó cho phép các tế bào lót ở cổ tử cung phát triển quá mức, phát triển các thay đổi trong gen và dẫn đến tình trạng ung thư. Thông thường, phụ nữ từ 35 tuổi đến 44 tuổi dễ mắc ung thư cổ tử cung nhất và hơn 15% trường hợp mắc mới được ghi nhận ở phụ nữ trên 65 tuổi.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, ngoài nguyên nhân chính là nhiễm HPV, ung thư cổ tử cung còn do các yếu tố nguy cơ khác gây ra như:
- Tiền sử tình dục: Các yếu tố liên quan đến tiền sử tình dục có thể làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung vì chúng có thể làm tăng nguy cơ phơi nhiễm HPV. Các nguy cơ bao gồm hoạt động tình dục khi còn trẻ, có nhiều bạn tình có nguy cơ lây truyền HPV cao.
- Hút thuốc: Hút thuốc có thể khiến mọi người tiếp xúc với các hóa chất gây ung thư có thể tích tụ trong cổ tử cung, dẫn đến thay đổi tế bào ung thư và làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Ở phụ nữ, hút thuốc có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư cổ tử cung.
- Hệ thống miễn dịch suy yếu: Thuốc ức chế miễn dịch và HIV có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch và làm tăng nguy cơ nhiễm HPV và phát triển ung thư cổ tử cung.
- Chlamydia: Nhiễm chlamydia hiện tại hoặc trước đây có thể làm tăng nguy cơ nhiễm HPV gây ung thư cổ tử cung.
- Sử dụng thuốc tránh thai đường uống trong thời gian dài: Nguy cơ ung thư cổ tử cung có thể tăng lên khi sử dụng thuốc tránh thai đường uống trong thời gian dài. Tuy nhiên, nguy cơ này sẽ giảm dần khi ngưng sử dụng thuốc.
- Mang thai nhiều lần: Mang thai từ ba lần trở lên có thể làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung. Nguyên nhân có thể là do nguy cơ nhiễm HPV tăng lên do hoạt động tình dục, thay đổi nội tiết tố hoặc hệ thống miễn dịch suy yếu.
- Mang thai khi còn trẻ: Những người mang thai trước 20 tuổi có thể có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn so với những người mang thai từ 25 tuổi trở lên.
- Chế độ ăn: Ăn chế độ thiếu trái cây và rau quả có thể làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung.
- Diethylstilbestrol (DES): DES là một loại thuốc ngăn ngừa sảy thai. Nếu mẹ dùng thuốc trong thời kỳ mang thai có thể làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung.
Phòng ngừa bệnh ung thư cổ tử cung như thế nào?
Ung thư cổ tử cung là một căn bệnh nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa được. HPV là nguyên nhân chính gây ra bệnh này, vì vậy việc phòng ngừa tập trung vào việc ngăn chặn sự tấn công, lây nhiễm và phát triển của virus. Các cách phòng ngừa bệnh ung thư cổ tử cung đơn giản và hiệu quả nhất gồm:
1. Tiêm vắc xin phòng HPV
Tiêm vắc xin HPV được xem là “lá chắn” vững chắc nhất bảo vệ phụ nữ khỏi nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung và nhiều loại ung thư khác. Vắc xin Gardasil và Gardasil 9 có thể phòng ngừa hiệu quả các bệnh lý nguy hiểm do HPV gây ra, bao gồm ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, ung thư âm hộ và âm đạo, cũng như các loại u nhú sinh dục. Không chỉ dành cho trẻ em gái, phụ nữ vắc xin HPV còn có thể được tiêm cho cả trẻ em trai, nam giới để bảo vệ sức khỏe sinh sản cho cả cộng đồng.
Vắc xin Gardasil phòng 4 tuýp HPV 6, 11, 16, 18 có hiệu quả phòng các bệnh ung thư âm hộ, âm đạo, sùi mào gà và các tổn thương tiền ung thư… được chỉ định dành cho trẻ em gái và phụ nữ trong độ tuổi từ 9 – 26 tuổi có lịch tiêm gồm 3 mũi:
- Mũi 1: Lần tiêm đầu tiên.
- Mũi 2: 2 tháng sau mũi 1.
- Mũi 3: 6 tháng sau mũi 1.
Vắc xin Gardasil 9 là vắc xin thế hệ mới được chỉ định sử dụng cho cả nam – nữ, cộng đồng LGBT từ 9 – 45 tuổi, bảo vệ khỏi 9 tuýp HPV 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58 gây các bệnh nguy hiểm như ung thư cổ tử cung, ung thư âm hộ, ung thư âm đạo, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, sùi mào gà… hiệu quả đến trên 90%. Lịch tiêm vắc xin Gardasil 9 như sau:
Người từ tròn 9 tuổi đến dưới 15 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên:
Phác đồ 2 mũi:
- Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
- Mũi 2: cách mũi 1 từ 6-12 tháng.
- Nếu mũi 2 tiêm cách mũi 1 < 5 tháng, cần tiêm mũi 3 cách mũi 2 ít nhất 3 tháng.
Phác đồ 3 mũi (0-2-6):
- Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
- Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
- Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng
Người từ tròn 15 tuổi đến 45 tuổi tại thời điểm tiêm lần đầu tiên:
Phác đồ 3 mũi (0-2-6):
- Mũi 1: lần tiêm đầu tiên trong độ tuổi
- Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 2 tháng
- Mũi 3: cách mũi 2 ít nhất 4 tháng.

2. Xây dựng chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý
Bên cạnh việc tiêm vắc xin HPV đầy đủ, đúng lịch theo khuyến cáo, để phòng ngừa ung thư cổ tử cung, cần xây dựng chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt hợp lý như sau:
- Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục để giảm nguy cơ lây nhiễm HPV. Mặc dù bao cao su không loại bỏ hoàn toàn nguy cơ nhưng giúp giảm tiếp xúc da với da, từ đó giảm nguy cơ lây truyền virus.
- Giảm số lượng bạn tình và thực hiện quan hệ tình dục với bạn tình ổn định có thể giảm nguy cơ nhiễm HPV.
- Duy trì một hệ miễn dịch khỏe mạnh bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên và tránh các yếu tố làm suy yếu hệ miễn dịch.
- Xây dựng chế độ ăn uống cân bằng và giàu vitamin A, C, E có thể giúp hỗ trợ hệ miễn dịch và giảm nguy cơ nhiễm trùng.
- Vệ sinh vùng kín sạch sẽ, đúng cách giúp ngăn ngừa nhiễm trùng.
- Bỏ thuốc lá vì hút thuốc là một yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung.
Tầm soát sàng lọc ung thư cổ tử cung
Tầm soát sàng lọc ung thư cổ tử cung là cách tốt nhất để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Đây là phương pháp sàng lọc, phát hiện các tế bào bất thường, tiền ung thư ở khu vực cổ tử cung – vị trí khe hẹp nối âm đạo với tử cung – của phụ nữ. Việc kiểm tra sức khỏe sinh sản, phụ khoa định kỳ đã được chứng minh có khả năng phát hiện và điều trị ung thư từ sớm. Phát hiện ung thư từ giai đoạn khởi phát giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ điều trị thành công và ngăn ung thư tiến triển, di căn tới các khu vực lân cận.
Trong giai đoạn đầu của ung thư cổ tử cung, triệu chứng của bệnh thường giống với các vấn đề viêm nhiễm phụ khoa khác, khiến nhiều người dễ dàng bỏ qua hoặc không nhận ra cần phải thăm khám. Sự chủ quan này dẫn đến việc không thực hiện các bước sàng lọc và kiểm tra ung thư cổ tử cung kịp thời, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị, cũng như tiêu tốn nhiều nguồn lực, thời gian và ảnh hưởng đến sức khỏe.
Do đó, việc thực hiện khám phụ khoa và sàng lọc ung thư cổ tử cung định kỳ sau tuổi 25 là rất quan trọng và luôn được khuyến khích để phát hiện sớm và can thiệp kịp thời.
Các phương pháp tầm soát ung thư cổ tử cung phổ biến nhất hiện nay gồm:
- Khám phụ khoa: Mặc dù khám phụ không không thể khẳng định ung thư cổ tử cung nhưng việc này giúp bác sĩ dễ dàng đánh giá, nghi ngờ khi phát hiện những tổn thương bất thường, viêm nhiễm từ sớm để chỉ định các xét nghiệm chuyên sâu. Nên khám phụ khoa định kỳ 6 tháng – 1 năm/ lần.
- Kiểm tra trực quan bằng acid acetic (VIA): Được thực hiện bằng các công cụ hỗ trợ và mắt thường. Bác sĩ sẽ phết một lượng nhỏ giấm trắng lên cổ tử cung. Nếu cổ tử cung có những chuyển đổi sang màu trắng khi tiếp xúc với giấm, báo hiệu những bất thường ở khu vực này.
- Soi cổ tử cung: Được thực hiện bằng cách quan sát khu vực cổ tử cung bằng thiết bị phóng đại chuyên dụng trong phụ khoa. Phương pháp này mang lại hình ảnh thật được phóng to 10 – 30 lần so với thực tế, giúp bác sĩ dễ dàng quan sát những tổn thương, bất thường khó quan sát bằng mắt thường. Đồng thời, bác sĩ có thể sử dụng dung dịch acid acetic 3 – 5% và dung dịch lugol 2% vào cổ tử cung để định vị chính xác khu vực bị tổn thương. Nếu phát hiện những bất thường, bác sĩ sẽ lấy một vài mảnh mô nhỏ để sinh thiết. Mẫu mô này sẽ được nhuộm, soi trên kính hiển vi nhằm phát hiện các tế bào ác tính, chẩn đoán bệnh chính xác hơn.
- Xét nghiệm Pap: Đây là phương pháp xét nghiệm phổ biến nhất, có thể phát hiện những thay đổi của tế bào có nguy cơ dẫn đến ung thư cổ tử cung. Bác sĩ sẽ dùng dụng cụ mỏ vịt chuyên dụng mở âm đạo để quan sát cổ tử cung. Sau đó dùng một bàn chải mềm hoặc thìa nhỏ để lấy mẫu tế bào từ cổ tử cung và gửi đến phòng xét nghiệm nhằm phân tích sự xuất hiện của HPV.
- Xét nghiệm HPV: Phương pháp này giúp phát hiện sớm các chủng HPV có liên quan đến nguy cơ gây ung thư cổ tử cung. Mẫu xét nghiệm HPV sẽ được thực hiện trên cơ sở một mẫu tế bào được lấy từ cổ tử cung, được chiết tách bằng máy phân tích nhằm xác định chính xác sự hiện hiện của HPV.

Bài viết trên đã giải đáp thắc mắc “Ung thư cổ tử cung có lây không?” một cách chi tiết và đầy đủ nhất. Mặc dù ung thư cổ tử cung không lây trực tiếp, tuy nhiên, virus HPV – thủ phạm gây ra bệnh lại có khả năng lây nhiễm rất cao. Để bảo vệ bản thân khỏi căn bệnh này, việc phòng ngừa là vô cùng quan trọng. Tiêm vắc xin HPV và khám phụ khoa định kỳ là những cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự tấn công của HPV và phát hiện sớm bệnh nếu không may bị nhiễm.