
Tràn khí màng phổi tự phát: Nguyên nhân và cách điều trị bệnh
Tràn khí màng phổi tự phát là gì?
Tràn khí màng phổi tự phát là tình trạng xuất hiện khí đột ngột ở trong khoang màng phổi gây xẹp một phần hoặc toàn bộ phổi. Phổi xẹp gây ảnh hưởng đến hệ hô hấp, tim và các tĩnh mạch xung quanh.. khiến người bệnh khó thở, đau ngực và các biến chứng nguy hiểm khác. (1)
Các loại tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi tự phát được chia thành các loại sau đây:
- Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát: xảy ra ở những bệnh nhân không có bệnh phổi, chủ yếu ở nam giới, cao, trẻ tuổi, gầy ở độ tuổi thiếu niên và phổ biến ở tuổi 20. Nguyên nhân có thể do sự vỡ tự phát của các kén khí hoặc bóng khí ở vị trí dưới màng phổi vùng đỉnh. Tình trạng này có thể do thuốc lá hoặc di truyền. Bệnh xuất hiện lúc nghỉ ngơi, có trường hợp xảy ra lúc gắng sức hoặc kéo dài, khi lặn hoặc bay ở độ cao lớn.
- Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát: thường xảy ra ở người bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính mức độ nặng khi bị vỡ bóng ký hoặc kén. Nhiễm Pneumocystis jiroveci liên quan đến HIV, bất kỳ bệnh nhu phổi nền nào, hoặc xơ nang. Bệnh khá nghiêm trọng vì xảy ra ở những người có bệnh phổi và làm giảm thể tích dự trữ phổi của họ.
- Tràn khí màng phổi liên quan đến kinh nguyệt: Dạng khí tràn màng phổi tự phát xảy ra trong khoảng 48 giờ khi bắt đầu có kinh nguyệt ở nữ giới tiền mãn kinh và sau mãn kinh đang dùng estrogen nhưng hiếm. Nguyên nhân là do lạc nội mạc tử cung trong lồng ngực, do thuyên tắc mạch qua tĩnh mạch vùng chậu, hoặc do sự di chuyển của mô nội mạc tử cung qua phúc mạc qua lỗ khuyết cơ hoành.
- Tràn khí màng phổi do chấn thương: Vị trí chấn thương vùng ngực xuyên thấu, đây giống như một biến chứng.
- Tràn khí màng phổi sau can thiệp: là sự ảnh hưởng từ các biện pháp can thiệp y khoa như: chọc dịch màng phổi, sinh thiết xuyên thành, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, đôi khi bao gồm cả hồi sức tim phổi, thông khí nhân tạo.

Nguyên nhân gây tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi tự phát có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, tùy thuộc vào từng loại bệnh. Dưới đây là một số nguyên nhân chính gây ra:
1. Khí tràn màng phổi tự phát nguyên phát
Nguyên nhân gây khí tràn màng phổi tự phát nguyên phát thường là do vỡ các bóng khí ở bề mặt phổi. Việc các bóng khí nhỏ ở phổi xuất hiện vẫn chưa rõ cơ chế, tuy nhiên các bóng khí này thường xuất hiện ở những người mắc bệnh rối loạn di truyền mô liên kết như hội chứng Marfan hoặc người có lông ngực dài. Khi người bệnh bị sốt siêu vi cũng có khả năng xuất hiện các bóng khí nhỏ trên phổi.
2. Khí tràn màng phổi tự phát thứ phát
Nhiều bệnh lý ở phổi có thể gây biến chứng khí tràn màng phổi tự phát thứ phát như:
- Bệnh lao: Lao phổi, những ổ lao nhuyễn hóa nằm rải rác trên bề mặt phổi có nguy cơ vỡ vào khoang màng phổi gây tình trạng tràn khí màng phổi.
- Bệnh tự nhiễm: Viêm da cơ, viêm khớp dạng thấp, xơ cứng bì… là những bệnh tự nhiễm gây tràn khí màng phổi. Ngoài ra, còn có bệnh ung thư phế quản gây di căn màng phổi nguy cơ gây thủng, làm tràn khí màng phổi nhưng hiếm gặp.
- Một số bệnh khác: Viêm tiểu phế quản, viêm phổi, áp xe phổi, hen suyễn, khí phế thũng, bệnh bụi phổi, dị vật đường thở, vỡ kén khí, xơ phổi kẽ lan tỏa, giãn phế quản,ung thư phổi,…
Triệu chứng tràn khí màng phổi tự phát
Các triệu chứng phổ biến cần chú ý khi một người bị tràn khí màng phổi tự phát bao gồm:
- Khó thở đột ngột.
- Ho đột ngột và dữ dội.
- Nhịp tim tăng nhanh, chóng mặt hoặc choáng váng.
- Da có màu xanh hoặc tím báo hiệu tình trạng thiếu oxy.
- Đau ngực – đau nhói, lan lên vai cùng bên và tăng lên khi hít vào.
- Giảm sự giãn nở của phổi.
- Giảm hoặc mất tiếng thở.
- Các triệu chứng nghiêm trọng kèm theo các dấu hiệu suy tim, suy hô hấp cần cấp cứu y tế kịp thời.

Tràn khí màng phổi tự phát có lây không?
Khí tràn màng phổi tự phát thứ phát, theo các chuyên gia y tế là bệnh không lây nhiễm. Tức là bệnh không nằm trong nhóm bệnh có thể lây nhiễm ra cộng đồng. Do đó, người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân có thể yên tâm về vấn đề này.
Những đối tượng nguy cơ tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi tự phát có thể xảy ra ở bất kỳ đối tượng nào, nhưng có một số đối tượng có nguy cơ cao hơn do các yếu tố di truyền, môi trường và tình trạng sức khỏe. Các đối tượng có nguy cơ cao như:
- Nam giới từ 20 – 30 tuổi xuất hiện bọng nước trên bề mặt phổi.
- Nữ giới thường ít nguy cơ mắc bệnh hơn nam giới.
- Người bị bệnh nội mạc tử cung (phụ nữ từ 30 – 40 tuổi).
- Di truyền do hội chứng Birt Hogg Dube (BHD) là một rối loạn di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường gây tràn khí màng phổi.
- Hút thuốc nhiều có thể gây ra bệnh khí phế thũng, khiến các lỗ thủng ở phổi có thể vỡ.
- Bị bệnh về phổi như khí phế thũng, bệnh u cơ trơn bạch huyết…
- sẽ phát triển PTX và trung bình 3,6 đợt.
- Một số trường hợp mắc bệnh chỉ là ngẫu nhiên không có các yếu tố nguy cơ gây bệnh.
Chẩn đoán bệnh tràn khí màng phổi tự phát
Chẩn đoán bệnh tràn khí màng phổi tự phát được thực hiện qua các bước thăm khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng. Dưới đây là các cách chẩn đoán bệnh thường gặp: (2)
1. Khám lâm sàng
Tràn khí màng phổi tự phát ở một số trường hợp dường như không có triệu chứng. Triệu chứng ban đầu bao gồm: khó thở, đôi khi đau ngực kiểu màng phổi. Tùy thuộc vào sự phát triển và mức độ nặng hay nhẹ của tràn khí màng phổi sẽ gây cho người bệnh tình trạng khó thở khởi phát dần dần hoặc khó thở đột ngột. Các cơn đau giống như viêm màng phổi, thuyên tắc mạch phổi, chấn thương cơ xương hoặc bệnh lý khi đau lan đến ổ bụng… Hoặc các cơn đau tương tự như bị thiếu máu cơ tim cục bộ.
Các dấu hiệu lâm sàng của bệnh xuất hiện ban đầu thường là: giảm rì rào phế nang, giảm rung thanh, hoặc gõ vang. Nếu tràn khí màng phổi mức độ nặng, bên phổi bị bệnh sẽ mở rộng khí quản hơn bên còn lại và được quan sát thấy chuyển sang phía đối diện. Đặc biệt, nếu người bệnh bị tràn khí màng phổi áp lực thì đôi khi phải đối mặt với tình trạng hạ huyết áp.
2. Chụp X-quang ngực
Chẩn đoán X quang lồng ngực là phương pháp được ứng dụng phổ biến hiện nay bởi có thể phát hiện được 90 – 95% các trường hợp tràn khí màng phổi tự phát.
Khi nhìn vào hình ảnh X quang, nếu có tràn khí màng phổi một nửa bên ngực sẽ có các biểu hiện là:
- Lồng ngực bên tràn khí quá sáng, mất vân phổi, phổi co lại về phía rốn phổi làm thành một bóng mờ đậm đặc. Khi bệnh nhân thở gắng sức nếu chụp phổi sẽ phát hiện tràn khí màng phổi nhưng không nhiều.
- Người bệnh có sức khỏe bình thường như bị khó thở và đau ngực kiểu màng phổi nên thực hiện chụp X-quang ngực ở tư thế đứng thẳng. Ngoài ra, nếu người bệnh không có bệnh nền liên quan đến phổi bác sĩ cũng có thể thực hiện siêu âm tại giường. Nếu kết quả cho thấy viền khí không có vân phổi ở giữa phổi hoặc thùy phổi, không cản quang là biểu hiện của tràn khí màng phổi. Nếu tràn khí màng phổi nhiều sẽ gặp tình trạng đè đẩy trung thất hoặc di lệch khí quản.
- Dựa vào tỷ lệ phần trăm của phổi tổn thương với lồng ngực để xác định kích cỡ của tràn khí màng phổi được. Tuy nhiên, tràn khí màng phổi xuất hiện không điển hình hoặc khu trú nếu có sự kết dính giữa thành ngực và phổi, phổi không bị xẹp, lúc này tính toán thường không chính xác.
- Chụp X-quang ngực đôi khi không thể phát hiện ra tràn khí màng phổi nếu tỉ lệ tràn khí quá ít < 10%. Đôi khi có thể nhầm lẫn với các trường hợp giống tràn khí màng phổi như nếp gấp da, khí phế thũng, tấm trải giường gấp và chồng lên nhau của ruột hoặc dạ dày trên vùng phổi.
Theo Surendra, tràn khí màng phổi được phân loại như sau:
- Mức độ nặng: Trung thất có xu hướng bị đẩy sang bên đối diện. Phổi như bị co rúm thành một cục, không hề thấy vân phổi. Khoang màng phổi chuyển sang màu sáng trắng.
- Mức độ vừa: Khoang màng phổi sáng, phổi vẫn co lại nhưng vẫn quan sát thấy vân phổi.
- Mức độ nhẹ: Khí chỉ khư trú ở góc vùng đỉnh phổi và rãnh liên thuỳ hoặc vị trí sườn hoành,. Một trường hợp khác là tràn khí hình liềm khí mỏng.
3. Chụp CT
Nếu cắt lớp vi tính CT ở thời điểm phổi vẫn còn xẹp bác sĩ sẽ không quan sát được hoặc khó phát hiện những thương tổn ở tổ chức nhu mô phổi. Do đó, bác sĩ chỉ nên chụp CT ở thời điểm sau khi đã chọc hút hay dẫn lưu khí khoang màng phổi.
Chụp CT cho phép đánh giá chi tiết tổn thương bóng khí, tổn thương lao, ổ áp xe, khối u, giãn phế quản, dày dính ) vị trí, mức độ tổn thương, mức độ chèn đẩy phổi, trung thất. Ngoài ra, các hình ảnh trên phim chụp cắt lớp vi tính cũng gợi ý cho bác sĩ trong việc xác định nguyên nhân gây ra tràn khí màng phổi.
4. Siêu âm
Siêu âm tại giường nhạy hơn CXR và luôn có sẵn nhanh chóng tại giường bệnh. Siêu âm giúp loại trừ một số trường hợp liên quan tới phổi. Đồng thời mất dấu hiệu “sóng trên bãi biển” ở chế độ M.
Điều trị tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi tự phát hiện nay được điều trị bằng nhiều cách. Trong đó phải kể đến:
1. Chọc hút khí đơn thuần
Chọc hút khí đơn thuần được chỉ định áp dụng cho trường hợp khí tràn màng phổi tự phát, cần điều trị cấp cứu y tế ngay lập tức, nhưng hiệu quả chưa triệt để. Sau đó, bệnh nhân vẫn cần đặt ống dẫn lưu khí sau đó.
Phương pháp phù hợp với người bệnh bị khí tràn màng phổi tự phát với tỷ lệ khí tràn chiếm trên 15%, chiều dài dải khí sát màng phổi lớn hơn 2cm. Chọc hút khí màng phổi thường sử dụng máy hút qua kim lớn hoặc bơm tiêm…
2. Dẫn lưu màng phổi
Các trường hợp tràn khí màng phổi cần cấp cứu nhanh cũng có thể áp dụng thủ thuật dẫn lưu màng phổi khi bác sĩ chưa thể phẫu thuật ngay. Phương pháp sử dụng một ống nhỏ để dẫn lưu ngực và máy hút để đưa khí tích tụ trong khoang màng phổi ra ngoài cơ thể. Cần đảm bảo kín, một chiều và vô trùng khi tiến hành thực hiện dẫn lưu màng phổi.

3. Phẫu thuật
Người bệnh bị tràn khí màng phổi tự phát thể tích lớn bác sĩ sẽ xem xét và chỉ định phẫu thuật. Bác sĩ sẽ dẫn khí tích tụ trong khoang màng phổi ra ngoài và xử lý tổn thương triệt để. Việc làm này nhằm tránh tràn khí hoặc dính màng phổi tái phát sau này. Theo đó, nếu bóng khí, kén khí bị tổn thương gây tràn khí màng phổi, bác sĩ sẽ thực hiện khâu hoặc kẹp để khắc phục tổn thương. Các sĩ sẽ cắt bỏ để ngăn ngừa tái phát nếu bên phổi người bệnh chứa nhiều bóng khí.
Biến chứng tràn khí màng phổi tự phát
Mặc dù các phương pháp điều trị tràn khí màng phổi hiện nay đã có những tiến bộ vượt bậc từ y khoa. Tuy nhiên, tỷ lệ rủi ro, biến chứng sau phẫu thuật tràn khí màng phổi ở hầu hết các bệnh liên quan đến phổi dường như khó tránh khỏi.
- Tràn khí màng phổi tái phát sau điều trị.
- Người bệnh hít thở khó, do lượng oxy đưa vào máu giảm sút, nguy cơ thiếu oxy trong máu, đe dọa tính mạng.
- Rò rỉ khí trong khoang màng phổi gây ảnh hưởng đến sức khỏe và khiến bệnh trở nên nặng hơn, lúc này cần thực hiện phẫu thuật vá lỗ rò rỉ.
- Ảnh hưởng tới huyết áp của bệnh nhân thường là huyết áp giảm do lượng oxy trong máu bị giảm.
- Bệnh tràn khí màng phổi tự phát nếu không được điều trị sớm sẽ gây chèn ép phổi, tim nặng nề. Sở dĩ là do khi lá phổi bị xẹp khiến oxy thiếu và làm hạn chế quá trình chuyển đến máu, lượng máu cũng bị ngăn cản trong việc đẩy đến tim và gây thiếu máu tim, người bệnh có nguy cơ tử vong sẽ rất cao.
Phòng ngừa tràn khí màng phổi tự phát
Các biện pháp phòng ngừa khí tràn màng phổi tự phát thường mang lại nhiều lợi ích cho nhiều người. Để tránh mắc bệnh, mọi người nên:
- Tập thể dục thường xuyên với các bài tập nhẹ nhàng, đặc biệt là bài tập giúp người bệnh hồi phục chức năng phổi tốt hơn.
- Luôn giữ ấm cho cơ thể tránh để bị nhiễm lạnh dẫn ho và các bệnh liên quan đến phổi.
- Đối với người bệnh sau điều trị nên tuân thủ chăm sóc theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.
- Tránh sử dụng các chất kích thích hoặc hạn chế dùng bia, rượu, thuốc lá…
- Nên có biện pháp chữa các bệnh liên quan đến hệ hô hấp, đặc biệt là phổi.
- Xây dựng thói quen, lối sống lành mạnh, nơi ở sạch sẽ, tránh khói bụi, ô nhiễm là các tác nhân gây bệnh về hô hấp.
- Tai mũi họng là những vị trí nhạy cảm cần được bảo vệ chăm sóc và vệ sinh hàng ngày, răng miệng cũng nên đánh răng thường xuyên.
- Xây dựng chế độ ăn lành mạnh, ưu tiên rau xanh, trái cây tươi và hạn chế thực phẩm chiên rán.
- Thường xuyên thăm khám sức khỏe định kỳ để phát hiện và điều trị sớm khi có các dấu hiệu tràn khí màng phổi tự phát.
Để đặt lịch khám bệnh với chuyên gia, bác sĩ hoặc cần tư vấn các vấn đề liên quan đến bệnh tràn khí màng phổi hoặc các bệnh khác về phổi, quý khách vui lòng liên hệ:
Tràn khí màng phổi tự phát thuộc phân loại bệnh của tràn khí màng phổi. So với tràn khí tràn phổi nguyên phát thì bệnh do tự phát thường nặng hơn. Do đó, mỗi người cần có ý thức bảo vệ sức khỏe, thường xuyên thăm khám định kỳ để phát hiện sớm, điều trị và phòng ngừa bệnh hiệu quả.