
Thuốc phòng ngừa ung thư vú nào tốt? Tác dụng, chỉ định và lưu ý
Thuốc phòng ngừa ung thư vú là gì? Tác dụng ra sao?
Thuốc phòng ngừa ung thư vú là loại thuốc giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Các loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất để giảm nguy cơ ung thư vú là tamoxifen và raloxifene. Các loại thuốc khác gọi là chất ức chế aromatase (như anastrozole và exemestane) cũng có thể là một lựa chọn.
Khi nào cần sử dụng thuốc phòng ngừa ung thư vú?
Bước đầu tiên để quyết định xem bạn có nên dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú hay không là nhờ bác sĩ đánh giá nguy cơ ung thư vú của bạn.
Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng nguy cơ ung thư vú của bạn phải cao hơn mức trung bình thì bạn mới cân nhắc dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú. Không có định nghĩa về nguy cơ ung thư vú cao hơn mức trung bình. Nhưng hầu hết các nghiên cứu lớn đều lấy mức nguy cơ phát triển ung thư vú là 1,7% trong 5 năm tới làm điểm giới hạn theo mô hình Gail Modal của Mỹ. Đây là nguy cơ trung bình đối với phụ nữ 60 tuổi. [1]
Nếu bạn có nguy cơ cao hơn mức trung bình, bạn cần so sánh lợi ích của việc có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú với nguy cơ tác dụng phụ và các vấn đề khác khi dùng một trong những loại thuốc này.
Yếu tố rủi ro là bất cứ điều gì làm tăng nguy cơ mắc bệnh của bạn. Các yếu tố nguy cơ cần được đánh giá để tìm hiểu xem bạn có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn mức trung bình hay không. Nhưng hãy nhớ rằng có yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn chắc chắn sẽ mắc ung thư vú. Trên thực tế, hầu hết phụ nữ có 1 hoặc nhiều yếu tố nguy cơ đều không bao giờ mắc bệnh ung thư vú.
Một số yếu tố nguy cơ quan trọng gây ung thư vú bao gồm:
- Tuổi ngày càng cao.
- Có người thân bị ung thư vú.
- Có lịch sử kinh nguyệt dài hơn (tổng số chu kỳ kinh nguyệt nhiều hơn).
- Từng bị ung thư vú xâm lấn hoặc ung thư biểu mô ống dẫn sữa tại chỗ (DCIS) trước đây.
- Được chẩn đoán mắc ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS).
- Được chẩn đoán mắc bệnh tăng sản ống tuyến vú không điển hình (ADH) hoặc tăng sản tiểu thùy không điển hình (ALH).
- Có đột biến gen liên quan đến hội chứng ung thư gia đình (như đột biến gen BRCA).
Các yếu tố này có thể làm tăng nguy cơ của bạn nhiều hơn những yếu tố khác.

Đối tượng chỉ định, chống chỉ định dùng thuốc ung thư vú
Chỉ định, chống chỉ định dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú trong các trường hợp sau:
1. Chỉ định
Một số tổ chức y tế khuyến nghị các bác sĩ thảo luận về việc sử dụng thuốc để giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ 35 tuổi trở lên có nguy cơ ung thư vú trong 5 năm tới là từ 1,7% trở lên theo phần mềm tính toán Gail Model.
2. Chống chỉ định
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ không có khuyến nghị sử dụng thuốc giúp giảm nguy cơ ung thư vú. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng không nên sử dụng tamoxifen và raloxifene để giảm nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ sau:
- Có nguy cơ đông máu nghiêm trọng.
- Đang mang thai hoặc dự định có thai.
- Đang cho con bú.
- Đang dùng estrogen (bao gồm thuốc tránh thai, thuốc tiêm hoặc liệu pháp hormone mãn kinh).
- Đang dùng thuốc ức chế aromatase.
- Dưới 35 tuổi.
- Phụ nữ có nguy cơ cao bị đông máu nghiêm trọng, bao gồm những người đã từng bị cục máu đông nghiêm trọng (huyết khối tĩnh mạch sâu [DVT] hoặc thuyên tắc mạch phổi [PE]).
- Nhiều bác sĩ cũng cảm thấy rằng nếu bạn bị đột quỵ, đau tim nghiện thuốc lá, béo phì, đang điều trị huyết áp cao hoặc tiểu đường, bạn cũng có nguy cơ cao bị đông máu nghiêm trọng. Phụ nữ mắc bất kỳ tình trạng nào trong số này nên hỏi bác sĩ xem lợi ích của việc dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú có lớn hơn rủi ro hay không.
- Phụ nữ đã được chẩn đoán mắc ung thư tử cung nào hoặc tăng sản không điển hình của tử cung (một loại tiền ung thư) không nên dùng tamoxifen để giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
- Raloxifene chưa được thử nghiệm ở phụ nữ tiền mãn kinh nên chỉ nên sử dụng nếu bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh.
- Thuốc ức chế Aromatase không hữu ích cho phụ nữ tiền mãn kinh nên chỉ nên sử dụng nếu bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh. Những loại thuốc này có thể gây loãng xương, vì vậy thuốc phòng ngừa ung thư vú không phải là lựa chọn tốt ở những phụ nữ vốn có xương mỏng hoặc yếu.
Bên cạnh đó, người bị đột biến gen BRCA và PALB2 cũng không nên dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú vì:
- Lợi ích của thuốc phòng ngừa ung thư vú ở những người có đột biến gen BRCA hoặc PALB2 là không chắc chắn.
- Phòng ngừa bằng thuốc có thể làm giảm nguy cơ xảy ra ung thư dương tính với estrogen. Tuy nhiên, lợi ích đối với những người bị đột biến gen BRCA và PALB2, những người có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư âm tính với estrogen, vẫn chưa rõ ràng.
- Những người có đột biến BRCA hoặc PALB2 từng phẫu thuật vú (có hoặc không tái tạo) để giảm nguy cơ phát triển ung thư sẽ không đủ điều kiện để điều trị dự phòng bằng thuốc.
Nói chuyện với bác sĩ về sức khỏe tổng thể của bạn để đưa ra lựa chọn phù hợp với bản thân.

Có những loại thuốc phòng ngừa ung thư vú nào?
Với phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn mức trung bình, một số loại thuốc có thể giúp giảm nguy cơ này. Nhưng những loại thuốc này cũng có thể có tác dụng phụ, vì vậy điều quan trọng là phải cân nhắc ưu và nhược điểm trước khi quyết định dùng một trong những loại thuốc phòng ngừa ung thư vú. Bao gồm những loại sau:
1. Tamoxifen và raloxifene
Cả 2 loại thuốc này đều là chất điều biến thụ thể estrogen chọn lọc (SERM). Điều này có nghĩa là chúng hoạt động chống lại (hoặc ngăn chặn) estrogen (1 loại hormone nữ) ở một số mô của cơ thể, nhưng lại hoạt động giống như estrogen ở những mô khác. Estrogen có thể thúc đẩy sự phát triển của các tế bào ung thư vú. Cả 2 loại thuốc này đều ngăn chặn estrogen trong tế bào vú, giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
Những loại thuốc này được sử dụng thường xuyên hơn vì những lý do sau:
- Tamoxifen được sử dụng chủ yếu để điều trị ung thư vú dương tính với thụ thể hormone (ung thư vú có tế bào chứa thụ thể estrogen và/hoặc progesterone).
- Raloxifene được sử dụng chủ yếu để ngăn ngừa và điều trị bệnh loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh.
Khi được sử dụng để giảm nguy cơ ung thư vú, những loại thuốc này thường được dùng trong 5 năm. Cả 2 loại thuốc đều là thuốc uống mỗi ngày một lần. Tamoxifen cũng có ở dạng lỏng.
Tamoxifen có thể là một lựa chọn cho dù bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh hay chưa, nhưng raloxifene chỉ được chấp thuận cho phụ nữ sau mãn kinh.
Tamoxifen và raloxifene là những loại thuốc duy nhất được phê duyệt ở Hoa Kỳ để giúp giảm nguy cơ ung thư vú, mặc dù đối với một số phụ nữ, thuốc ức chế aromatase cũng có thể là một lựa chọn.
Tác dụng của những loại thuốc này đối với nguy cơ ung thư vú rất khác nhau trong các nghiên cứu khác nhau. Khi kết quả của tất cả các nghiên cứu được so sánh cùng nhau, mức giảm nguy cơ chung đối với các loại thuốc này là khoảng 40% (hơn 1/3). [2]
Cả tamoxifen và raloxifene đều có thể giúp ngăn ngừa chứng loãng xương, tình trạng xương bị suy yếu nghiêm trọng có thể làm tăng nguy cơ gãy xương và phổ biến hơn sau khi mãn kinh.
2. Thuốc ức chế aromatase (AI)
Những phụ nữ sau mãn kinh có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn mức trung bình nên cân nhắc dùng thuốc để giảm nguy cơ, thuốc ức chế aromatase (AI) có thể là một lựa chọn thay vì tamoxifen hoặc raloxifene.
Chất ức chế aromatase (AI) làm giảm nồng độ estrogen bằng cách ngăn chặn một loại enzyme trong mô mỡ (được gọi là aromatase) biến đổi các hormone khác thành estrogen. (Estrogen có thể thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư vú.)
Những loại thuốc này không ngăn cản buồng trứng tạo ra estrogen. Chúng chỉ làm giảm nồng độ estrogen ở những phụ nữ có buồng trứng không sản xuất estrogen (chẳng hạn như những phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn kinh). Vì lý do này, chất ức chế aromatase được sử dụng chủ yếu ở những phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn kinh.
Các AI đã được chứng minh trong các nghiên cứu giúp giảm nguy cơ ung thư vú bao gồm:
- Anastrozole (arimidex)
- Exemestane (aromasin)
Giống như tamoxifen, những loại thuốc này thường được sử dụng để điều trị ung thư vú dương tính với thụ thể hormone hơn để giảm nguy cơ ung thư vú.
Khi được sử dụng để giảm nguy cơ ung thư vú, những loại thuốc này thường được dùng trong 5 năm, dạng viên thuốc, uống mỗi ngày một lần.
Trong các nghiên cứu lớn, cả anastrozole và exemestane đều được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ sau mãn kinh có nguy cơ cao hơn.
Mặc dù những loại thuốc này không được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận để giảm nguy cơ ung thư vú, nhưng một số nhóm chuyên gia đã đưa chúng vào làm lựa chọn (cùng với tamoxifen và raloxifene) để giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau mãn kinh có nguy cơ gia tăng. Ví dụ, chúng có thể là lựa chọn hợp lý cho những phụ nữ có nguy cơ đông máu cao hơn và không dùng được tamoxifen hoặc raloxifene.

Liệu pháp kết hợp sử dụng thuốc phòng ngừa ung thư vú
Mặc dù một loại thuốc làm giảm nguy cơ của bạn khoảng 40% nghe có vẻ như là một điều tốt, nhưng điều này có ý nghĩa gì đối với bạn phụ thuộc vào mức độ rủi ro ngay từ đầu (nguy cơ cơ bản).
Ví dụ: nếu bạn có 5% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú trong 5 năm tới, bạn sẽ được coi là có nguy cơ cao. Rủi ro 5% có nghĩa là trong 5 năm tới, 5 trong số 100 phụ nữ có nguy cơ như bạn sẽ bị ung thư vú. Giảm 40% rủi ro có nghĩa là rủi ro của bạn giảm xuống còn 3%.
Vì sự thay đổi trong rủi ro tổng thể phụ thuộc vào rủi ro cơ bản, bạn sẽ được hưởng lợi ít hơn nếu có rủi ro cơ bản thấp hơn và bạn sẽ được hưởng lợi nhiều hơn nếu rủi ro cao hơn. Nếu rủi ro cơ bản của bạn chỉ là 1,7% trong 5 năm tới (mức mà nhiều nhóm chuyên gia sử dụng làm điểm giới hạn để xác định mức rủi ro gia tăng), giảm 40% có nghĩa là rủi ro của bạn đã giảm ít hơn khoảng 1% trong 5 năm tới.
Bác sĩ có thể ước tính nguy cơ ung thư vú của bạn dựa trên các yếu tố như tuổi tác, tiền sử bệnh và tiền sử gia đình. Điều này có thể giúp bạn biết bạn có thể nhận được bao nhiêu lợi ích khi dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú.
Tác dụng phụ của phòng ngừa ung thư vú bằng thuốc
Tamoxifen và raloxifene giúp giảm nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ có nguy cơ cao hơn mức trung bình, nhưng những loại thuốc này có thể có những rủi ro và tác dụng phụ riêng:
1. Tamoxifen và raloxifene
- Triệu chứng mãn kinh: tác dụng phụ thường gặp nhất của những loại thuốc này là các triệu chứng mãn kinh như bốc hỏa và đổ mồ hôi ban đêm. Tamoxifen cũng có thể gây khô và tiết dịch âm đạo. Phụ nữ tiền mãn kinh dùng tamoxifen có thể bị thay đổi kinh nguyệt. Chu kỳ kinh nguyệt có thể trở nên không đều hoặc thậm chí dừng lại. Mặc dù kinh nguyệt thường bắt đầu lại sau khi ngừng dùng thuốc nhưng không phải lúc nào cũng vậy và một số phụ nữ sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh. Điều này dễ xảy ra hơn ở những phụ nữ gần mãn kinh khi họ bắt đầu dùng thuốc.
- Các cục máu đông: biến chứng này nghiêm trọng nhưng hiếm gặp. Cả tamoxifen và raloxifene đều làm tăng nguy cơ phát triển cục máu đông trong tĩnh mạch ở chân (huyết khối tĩnh mạch sâu) hoặc trong phổi (thuyên tắc phổi). Những cục máu đông này đôi khi có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng và thậm chí tử vong. Trong các nghiên cứu lớn xem xét các loại thuốc này để phòng ngừa ung thư vú, nguy cơ chung về các cục máu đông này sau 5 năm điều trị là dưới 1%. Nguy cơ này có thể cao hơn nếu trước đây bạn từng bị cục máu đông nghiêm trọng. Vì vậy những loại thuốc này thường không được khuyến khích để giảm nguy cơ ung thư vú cho bất kỳ ai có tiền sử cục máu đông. Vì những loại thuốc này làm tăng nguy cơ phát triển cục máu đông nghiêm trọng nên cũng có lo ngại rằng chúng cũng có thể làm tăng nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ, mặc dù điều này chưa rõ ràng. Bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ, đặc biệt nếu bạn có tiền sử đau tim, đột quỵ hoặc có nguy cơ cao mắc bệnh này.
- Ung thư tử cung: Vì tamoxifen hoạt động giống như estrogen trong tử cung nên loại thuốc này có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tử cung, bao gồm cả ung thư nội mạc tử cung và sarcoma tử cung. Tamoxifen cũng liên quan đến nguy cơ tiền ung thư nội mạc tử cung cao hơn. Nguy cơ gia tăng dường như ảnh hưởng đến phụ nữ trên 50 tuổi nhưng không ảnh hưởng đến phụ nữ trẻ hơn. Nguy cơ ung thư tử cung nói chung tăng lên khi sử dụng tamoxifen chỉ dưới 1% và trở lại bình thường trong vòng vài năm sau khi ngừng thuốc. Nếu bạn đã cắt bỏ tử cung (phẫu thuật cắt bỏ tử cung), bạn không có nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung hoặc sarcoma tử cung và không phải lo lắng về những bệnh ung thư này. Nếu bạn đang dùng tamoxifen, đến gặp bác sĩ nếu bạn bị chảy máu hoặc ra đốm âm đạo bất thường, đặc biệt là sau khi mãn kinh, vì đây có thể là những triệu chứng của ung thư tử cung. Tuy nhiên, raloxifene không hoạt động giống như estrogen trong tử cung và không liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư tử cung.
2. Thuốc ức chế aromatase (AI)
- Tác dụng phụ thường gặp nhất của AI là các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh, chẳng hạn như bốc hỏa, đổ mồ hôi ban đêm và khô âm đạo.
- Loại thuốc phòng ngừa ung thư vú này cũng có thể gây đau cơ và khớp. Tác dụng phụ này có thể nghiêm trọng đến mức khiến một số phụ nữ ngừng dùng thuốc.
- Không giống như tamoxifen và raloxifene, AI có xu hướng làm loãng xương nhanh hơn. Những người bị loãng xương có nhiều khả năng bị gãy xương hơn. Vì điều này, các bác sĩ thường khuyên nên kiểm tra mật độ xương trước khi bắt đầu sử dụng thuốc ức chế aromatase (AI).
- AI có thể làm tăng cholesterol. Những phụ nữ mắc bệnh tim từ trước sử dụng AI có thể có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn.

Biến chứng rủi ro khi dùng thuốc phòng ngừa ung thư vú
Tất cả các loại thuốc đều có rủi ro và tác dụng phụ, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc phòng ngừa ung thư vú nào. Một số biến chứng thường gặp như:
- Tổn thương tim: vì những loại thuốc này làm tăng nguy cơ phát triển cục máu đông nghiêm trọng nên cũng có lo ngại rằng chúng cũng có thể làm tăng nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ, mặc dù điều này chưa rõ ràng. Bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ, đặc biệt nếu bạn có tiền sử đau tim, đột quỵ hoặc bạn có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Chăm sóc khi sử dụng thuốc ngừa ung thư vú
Một số lưu ý khi sử dụng thuốc phòng ngừa ung thư vú:
- Thuốc phòng ngừa ung thư vú có thể tương tác với thuốc, sản phẩm thảo dược và một số thức ăn, đồ uống. Chúng tôi không thể liệt kê tất cả các tương tác có thể xảy ra. Một ví dụ là bưởi hoặc nước ép bưởi có thể làm tăng tác dụng phụ của một số loại thuốc.
- Nói với nhóm chăm sóc sức khỏe của bạn về bất kỳ loại thuốc nào bạn đang dùng. Điều này bao gồm vitamin, chất bổ sung thảo dược và thuốc không kê đơn. Đồng thời cho họ biết về bất kỳ tình trạng y tế hoặc dị ứng nào khác mà bạn có thể mắc phải.
- Mang thai và tránh thai: thuốc Tamoxifen có thể gây hại cho em bé đang phát triển trong bụng mẹ. Điều quan trọng là không được mang thai hoặc sinh con trong khi bạn đang điều trị bằng thuốc này và trong ít nhất 9 tháng sau đó. Nói chuyện với bác sĩ về biện pháp tránh thai hiệu quả trước khi bắt đầu điều trị. Hãy cho họ biết ngay lập tức nếu bạn có thai trong khi điều trị.
- Cho con bú: không biết liệu thuốc này có đi vào sữa mẹ hay không. Các bác sĩ thường khuyên bạn không nên cho con bú trong quá trình điều trị này.
- Điều trị cho các tình trạng khác: luôn nói với các bác sĩ về việc bạn đang điều trị bằng phương pháp này. Ví dụ, nếu bạn cần điều trị bất cứ điều gì khác, kể cả các vấn đề về răng.
Một số lưu ý khi sử dụng thuốc phòng ngừa ung thư vú
1. Có thể sử dụng thuốc phòng ngừa ung thư vú khi cho con bú không?
Hiện vẫn chưa biết liệu thuốc này có đi vào sữa mẹ hay không nên các bác sĩ thường khuyên bạn không nên cho con bú khi sử dụng thuốc phòng ngừa ung thư vú.
2. Thuốc phòng ngừa ung thư vú có tác dụng trong bao lâu?
Thuốc phòng ngừa ung thư vú có tác dụng trong bao lâu còn tùy vào thể trạng của mỗi người. Khi được sử dụng để giảm nguy cơ ung thư vú, những loại thuốc này thường được dùng trong 5 năm. Cả 2 loại thuốc đều là thuốc uống mỗi ngày một lần.
3. Nếu quên uống thuốc phòng ngừa ung thư vú phải làm sao?
Bạn không nên uống gấp đôi để bù cho liều đã bỏ lỡ. Trường hợp quên liều thuốc phòng ngừa ung thư vú, hãy uống ngay khi nhớ và uống liều tiếp theo như bình thường. Tuy nhiên, nếu gần đến giờ uống liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch trình uống thuốc thông thường.
4. Nguy cơ ung thư vú được đánh giá như thế nào?
Các nhà nghiên cứu đã xây dựng một số mô hình thống kê để giúp dự đoán nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở phụ nữ.
Ví dụ: Công cụ đánh giá rủi ro ung thư vú (dựa trên Mô hình Gail đã sửa đổi) thường được sử dụng để đánh giá rủi ro, có thể ước tính nguy cơ mắc bệnh ung thư vú trong 5 năm tới và trong suốt cuộc đời của bạn, dựa trên nhiều yếu tố được liệt kê ở trên.
Tuy nhiên, công cụ này chỉ xem xét lịch sử gia đình của những người họ hàng gần (như anh chị em, cha mẹ và con cái). Công cụ này không thể được sử dụng để ước tính rủi ro nếu bạn có tiền sử ung thư biểu mô ống tại chỗ (DCIS), ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS) hoặc ung thư vú hoặc nếu bạn mắc hội chứng ung thư gia đình.
Ngoài ra, dữ liệu mà công cụ này dựa trên không bao gồm phụ nữ người Mỹ bản địa hoặc thổ dân Alaska, vì vậy ước tính về những phụ nữ này có thể không chính xác.
Các công cụ đánh giá rủi ro khác, chẳng hạn như mô hình Tyrer-Cuzick và mô hình Claus, chủ yếu dựa vào lịch sử gia đình. Những công cụ này chủ yếu được sử dụng bởi các cố vấn di truyền và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác. Những công cụ này có thể cung cấp cho bạn ước tính sơ bộ về nguy cơ của bạn, nhưng không có công cụ hoặc xét nghiệm nào có thể biết chắc chắn liệu bạn có bị ung thư vú hay không.

Với hệ thống trang thiết bị hiện đại, đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm, làm việc phối hợp đa chuyên khoa như Chẩn đoán hình ảnh – Giải phẫu bệnh – Nội khoa Ung thư, khoa Ngoại vú thuộc PlinkCare TP.HCM có thế mạnh trong tầm soát và điều trị ung thư vú và các bệnh liên quan đến tuyến vú.
Tamoxifen, raloxifene và thuốc ức chế aromatase (AI) đều là những loại thuốc phòng ngừa ung thư vú phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, những loại thuốc này đi kèm nhiều tác dụng phụ, nhất là với phụ nữ chưa mãn kinh. Vì vậy, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa ung bướu để đảm bảo an toàn và hiệu quả khi sử dụng.