
13 loại thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch [Tham khảo]
Hắc võng mạc trung tâm thanh dịch là bệnh gì?
Hắc võng mạc trung tâm thanh dịch (CSR) là xảy ra khi có dịch rò rỉ qua các biểu mô sắc tố võng mạc. Sau đó, chúng hình thành một vùng bong thanh dịch nằm ở lớp võng mạc thần kinh thuộc khu vực phía sau nhãn cầu, khiến người bệnh bị giảm thị lực tạm thời. CSR thường xảy ra ở một bên mắt, kèm theo tình trạng bong biểu mô sắc tố.
Khi thanh dịch trong ổ bong đã rút hết, lúc này thị lực dường như đã hồi phục. Tuy nhiên ở một số trường hợp đặt biệt, thị lực suy giảm không có khả năng hồi phục. Bệnh phổ biến hơn ở nam giới trong độ tuổi từ 25 – 55 tuổi. Bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch được chia thành 2 loại với các biểu hiện đặc trưng:
- Bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch thể cổ điển: Đặc trưng gây ra bởi 1 hoặc nhiều lỗ rò rỉ cô lập rời rạc ở mức độ biểu mô sắc tố võng mạc.
- Bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch thể mạn tính: đặc trưng bởi sự tách rời võng mạc nhận cảm thần kinh nằm trên vùng teo biểu mô sắc tố võng mạc cùng với lốm đốm sắc tố.
>> Tìm hiểu thêm: Bệnh hắc võng mạc có nguy hiểm không?
Tham khảo 13 loại thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch hiệu quả
Dưới đây là gợi ý về 13 loại thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch hiệu quả:
1. Acetazolamid
Thuốc Acetazolamide được báo cáo là có hiệu quả trong việc làm giảm phù hoàng điểm liên quan đến nhiều bệnh lý nội nhãn và phẫu thuật. Ngoài ra, Acetazolamide được sử dụng ngoài nhãn như một loại thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch trên cơ sở rằng việc ức chế anhydrase carbonic IV trong biểu mô sắc tố có thể thúc đẩy quá trình tái hấp thu dịch dưới võng mạc. Và gây ra sự phục hồi phân cực bình thường trong RPE cũng như khả năng ức chế hoạt động của glutamyl transpeptidase trong các mô mắt.
Sự ức chế này hỗ trợ sự kết dính tế bào, hóa hướng động bạch cầu trung tính và sự thoái hóa thông qua việc nâng cao nồng độ leukotriene D4. Tuy nhiên, cơ chế này có thể ảnh hưởng thuận lợi đến phù hoàng điểm liên quan đến CSR. Trên thực tế, việc sử dụng chất ức chế anhydrase carbonic trong điều trị CSR đã được đề xuất nhưng chỉ được nghiên cứu trong một thử nghiệm lâm sàng. Hiện đây là nhóm thuốc được các bác sĩ nhãn khoa thường sử dụng cho bệnh nhân CSR.

2. Eplerenone
Sử dụng thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch eplerenone cũng đã được nghiên cứu và chứng minh lâm sàng, sử dụng thuốc qua đường uống. Các nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng tốt trong các trường hợp bị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch mãn tính.
Bousquet trong một nghiên cứu thí điểm không đối chứng, có triển vọng đã xem xét 13 bệnh nhân bị bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch không thuyên giảm, đã kéo dài 4 tháng. Bệnh nhân được điều trị bằng eplerenone 25mg/ngày kéo dài trong 1 tuần, sau đó là 50 mg/ngày trong tối đa 3 tháng [1]. Kết quả cho thấy, người bệnh sau khi dùng eplerenone bệnh CSR đã được cải thiện tích cực.
3. Spironolactone
Spironolactone có cơ chế tương tự như eplerenone và cũng đã được nghiên cứu rộng rãi như một loại thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch.
Bousquet cũng đã thực hiện một nghiên cứu chéo có triển vọng để đánh giá tác dụng của spironolactone đối với bệnh hắc võng mạc trung tâm không hồi phục. Ông đã thử thuốc spironolactone trên những bệnh nhân bị bệnh dai dẳng trong 3 tháng, với liều dùng spironolactone 50mg/ ngày, điều trị trong vòng 30 ngày. Sau đó là thời gian rửa trôi trong 1 tuần và sau đó chuyển sang dùng giả dược hoặc spironolactone trong 30 ngày nữa. Kết quả người bệnh đáp ứng thuốc, và bệnh thuyên giảm sau điều trị.
4. Omeprazole
Thuốc Omeprazole được sử dụng bằng đường uống. Liều lượng đối với người lớn 1 viên/ lần hoặc 2 lần/ ngày tùy theo mục đích điều trị. Thuốc được khuyến cáo nên uống trước bữa ăn. Nếu mục đích để tác dụng thuốc kéo dài, người bệnh nên nuốt toàn bộ viên thuốc, không nên nghiền nát hoặc nhai thuốc vì như vậy có thể giải phóng tất cả hoạt chất trong thuốc. Đồng thời làm tăng nguy cơ tác dụng phụ khi điều trị bệnh liên quan đến hắc võng mạc.
5. Methotrexat
Methotrexate (MTX) là loại thuốc chống chuyển hóa thường được sử dụng để điều trị các rối loạn viêm toàn thân và mắt như viêm khớp dạng thấp và viêm màng bồ đào. Mặc dù cơ chế hoạt động ban đầu liên quan đến ức chế miễn dịch, các cơ chế hoạt động khác bao gồm tăng nồng độ adenosine, tác dụng chống hình thành mạch và tương tác với thụ thể progesterone ở mô hình động vật. Nhiều tác dụng trong số này có vẻ phụ thuộc vào liều lượng.
Kurup và cộng sự đã thực hiện một đánh giá thông qua việc sử dụng Methotrexate là thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch mãn tính. Liều khởi đầu trung bình 7,04mg (phạm vi 5-10 mg) và liều cuối cùng trung bình là 7,27mg (phạm vi 5-10 mg). Thời gian điều trị trung bình là 89 ngày. Kết quả là sau khi dùng thuốc bệnh nhân có những cải thiện đáng kể và không có tác dụng phụ liên quan đến thuốc Methotrexate. Tuy nhiên đây là thuốc ức chế miễn dịch và có khả năng gây độc lên gan, vì vậy việc sử dụng điều trị CSR cần tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ.

6. Aspirin liều thấp
Trong một số trường hợp bị bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch mãn tính có thể sử dụng thuốc Aspirin liều thấp để điều trị. Các nghiên cứu cho thấy thuốc có tác dụng khá tốt giúp cải thiện BCVA và tỷ lệ tái phát tốt hơn so với nhóm đối chứng. Có vẻ như việc sử dụng aspirin có triển vọng, tuy nhiên, các nghiên cứu còn rất hạn chế và cần phải có thêm các thử nghiệm khác mang tính chắc chắn hơn.
7. Mifepristone
Thuốc Mifepristone (RU-486) là chất đối kháng thụ thể glucocorticoid và progesterone có áp lực cao. Mifepristone được dùng làm thuốc điều trị bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch với liều lượng đường uống 200mg lần/ ngày tối đa 12 tuần. Kết quả, người bệnh tăng thị lực, và tình trạng bệnh liên quan đến võng mạc được cải thiện. Đặc biệt, thuốc không gây ra tác dụng phụ nào. Tuy nhiên, đây là một nghiên cứu không kiểm soát và cần có thêm thời gian để khẳng định chắc chắn.
8. Ketoconazole
Thuốc ketoconazole là một imidazol tổng hợp, được sử dụng vì đặc tính chống nấm của nó, nhưng cũng có tác dụng kháng glucocorticoid. Meyerle và cộng sự đã nghiên cứu và điều trị người bệnh bị hắc võng mạc sắc tố với liều lượng thuốc ketoconazole như sau: 600mg/ngày và uống thuốc trong khoảng 4 tuần. Kết quả là người bệnh đã có những thay đổi tích cực về mặt thị lực. Tuy nhiên, vẫn cần thời gian để khẳng định thêm về tác dụng và hiệu quả của thuốc.
9. Rifampicin
Rifampicin được sử dụng để điều trị bệnh lao (TB) và gần đây đã được báo cáo là có tác dụng chống oxy hóa, chống apoptosis và chống hình thành mạch. Cơ chế hoạt động chính của thuốc là ức chế RNA polymerase phụ thuộc DNA, ngăn chặn quá trình phiên mã của RNA. Nó là chất cảm ứng cytochrome P450, 3A4 xúc tác nhiều phản ứng liên quan đến quá trình chuyển hóa thuốc và tổng hợp cholesterol, steroid và các lipid khác.
Do đó, người ta đưa ra giả thuyết rằng việc cảm ứng cytochrome P450 3A4 có thể làm tăng quá trình chuyển hóa steroid nội sinh dẫn đến cải thiện các biểu hiện CSCR. Nhiều trường hợp khác đã báo cáo về sự giải quyết hoặc giảm SRF của CSCR mãn tính và cải thiện thị lực ở những người được điều trị bằng rifampicin. Liều dùng thuốc Rifampicin được khuyến cáo là 300mg/ 2 lần mỗi ngày trong 3 tháng và được theo dõi trong 6 tháng.

10. Thuốc chẹn beta
Thuốc kháng adrenergic như thuốc chẹn beta được sử dụng trong nhiều bệnh khác nhau bao gồm tăng huyết áp và căng thẳng thần kinh. Mối liên hệ lâu dài giữa SCR với căng thẳng và tính cách loại A đã dẫn đến vai trò được cho là của thuốc chẹn adrenergic như một lựa chọn điều trị khả thi cho bệnh hắc võng mạc mãn tính.
11. Thuốc điều trị Helicobacter Pylori
Nhiều nghiên cứu nhỏ đã được công bố về liệu pháp diệt trừ H.pylori (thường là sự kết hợp của metronidazole hoặc clarithromycin + amoxicillin và omeprazole) báo cáo rằng SRF được cải thiện, thời gian giải quyết nhanh hơn so với nhóm đối chứng và cải thiện thị lực. Sau điều trị, người bệnh có sự cải thiện độ nhạy võng mạc có thể là thông qua tác dụng trực tiếp của ức chế bơm proton trong quá trình chuyển hóa thụ thể ánh sáng võng mạc.
12. Melatonin
Thuốc melatonin tham gia vào quá trình điều hòa sinh lý và tham gia vào quá trình điều hòa giấc ngủ bình thường, cũng như có khả năng đóng vai trò trong bảo vệ thần kinh.
Gramajo và cộng sự trong một loạt ca so sánh, ngẫu nhiên, có triển vọng gồm 13 bệnh nhân đã so sánh melatonin 3mg/ 3 lần/ngày (n = 8) với giả dược (n = 5) ở những bệnh nhân mắc CSCR mãn tính. Các phương pháp điều trị trước đó bao gồm: thuốc chống VEGF (n = 6), laser (n = 1), thuốc chống viêm không steroid (n = 1) hoặc không điều trị. Những bệnh nhân đã từng điều trị bằng laser hoặc thuốc chống VEGF trong 3 tháng qua đã bị loại trừ.
Vào tháng thứ 1, BCVA cải thiện ở 87,5% bệnh nhân được điều trị bằng melatonin từ mức ban đầu là 0,29 đến 0,12 và tất cả bệnh nhân đều giảm độ dày võng mạc trung tâm hoàng điểm, với 3 bệnh nhân hoàn toàn khỏi bệnh. Không thấy thay đổi nào về CMT hoặc SRF ở nhóm dùng giả dược và thấy thị lực tối đa chỉnh kính xấu đi từ 0,28 đến 0,36. Một bệnh nhân trong nhóm dùng melatonin đã tái phát sau đó khi theo dõi 1 năm. Không gặp tác dụng phụ bất ngờ nào, mặc dù 2 bệnh nhân báo cáo buồn ngủ trong 24–48 giờ đầu sau khi bắt đầu điều trị.
Đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét melatonin trong điều trị bệnh hắc võng mạc và mặc dù có triển vọng, vẫn cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để xác định liệu đây có phải là phương pháp điều trị khả thi cho CSCR hay không.
13. Finasteride
Thuốc Finasteride là 5 alpha-reductase, một chất ức chế dihydrotestosterone thường được sử dụng trong điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt và rụng tóc androgen. Cũng như glucocorticoid, androgen đã được đề xuất trong quá trình sinh bệnh của SCR và về mặt lý thuyết, chất đối kháng có thể là một trợ thủ đắc lực cho việc điều trị.
Trong một nghiên cứu, Forooghian đã thí điểm có triển vọng trong điều trị cho những bệnh nhân mắc CSCR mạn tính. Liều lượng finasteride 5mg/ ngày điều trị 3 tháng. Kết quả là bệnh nhân đáp ứng thuốc nhưng không có người mắt hồi phục hoàn toàn.
Thuốc Finasteride có thể đóng vai trò trong điều trị CSCR tuy nhiên cần thời gian để nghiên cứu thêm tác dụng của thuốc. Mặc dù trên thị trường, Finasteride là một loại thuốc tương đối rẻ tiền và được dung nạp tốt nhưng vẫn cần khẳng định về tác dụng của thuốc trong điều trị bệnh hắc võng mạc.
Tác dụng phụ có thể xảy ra khi sử dụng thuốc điều trị hắc võng mạc
Hiện nay, các loại thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch vẫn chưa được sử dụng chính thức bởi các loại thuốc trên cần thêm thời gian nghiên cứu để xác định rõ tác dụng đối với bệnh. Đặc biệt, một số loại thuốc có thể gây tác dụng phụ ảnh hưởng đến mắt và sức khỏe người bệnh. Các tác dụng phụ bao gồm:
- Đỏ mắt, đau nhức mắt
- Mắt nhạy cảm với ánh sáng
- Đau đầu, chóng mặt, thậm chí buồn nôn

Để đặt lịch khám bệnh với chuyên gia, bác sĩ nhãn khoa hoặc cần tư vấn các vấn đề liên quan đến các phương pháp điều trị bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch hoặc các bệnh lý khác về mắt tại Trung tâm Mắt Công nghệ cao Tâm Anh, quý khách vui lòng liên hệ:
Hiện nay, sử dụng thuốc điều trị hắc võng mạc trung tâm thanh dịch chưa phải là phương pháp phổ biến. Vẫn cần thêm thời gian để nghiên cứu các tác dụng và hiệu quả của thuốc sau điều trị. Và thuốc eplerenone có thể phù hợp làm phương pháp điều trị đầu tay, không xâm lấn để thử nghiệm ở những bệnh nhân không muốn điều trị các phương pháp xâm lấn như quang đông laser, PDT hoặc tiêm thuốc chống VEGF nội nhãn.