
Tiếp cận theo dõi sau điều trị ung thư vú và chăm sóc người bệnh
Tại sao cần theo dõi người bệnh sau điều trị ung thư vú?
Cần theo dõi sau điều trị ung thư vú vì người bệnh phải đối mặt với các vấn đề lão hóa thông thường kết hợp với những ảnh hưởng lâu dài của việc mắc bệnh ung thư và tác dụng phụ của liệu pháp điều trị trong hàng chục năm. Người bệnh còn có nguy cơ tái phát ung thư vú (phổ biến nhất trong 5 năm đầu nhưng cũng có thể xảy ra sau nhiều năm điều trị), ung thư vú nguyên phát mới, các bệnh ung thư khác và tác dụng phụ ngắn hạn và dài hạn của các phương pháp điều trị.
Ngoài ra, còn có các vấn đề khác như: tâm lý, di truyền, sinh sản, xã hội và việc làm…

1. Khả năng tác dụng phụ khi điều trị
- Các triệu chứng toàn thân: chán ăn, sụt cân, khó chịu, mệt mỏi, mất ngủ, vấn đề liên quan đến xương, cơn đau và các đặc điểm như: vị trí, tính chất, các triệu chứng liên quan..
- Các triệu chứng về phổi: ho hoặc khó thở dai dẳng (khi nghỉ ngơi hoặc gắng sức).
- Triệu chứng thần kinh: nhức đầu, buồn nôn, nôn, lú lẫn, yếu, tê hoặc ngứa ran.
- Các triệu chứng về đường tiêu hóa: đau hạ sườn phải, thay đổi thói quen đại tiện, phân có máu hoặc hắc ín.
- Triệu chứng tiết niệu, sinh dục: chảy máu âm đạo, đau vùng chậu, khó tiểu.
- Triệu chứng tâm lý: trầm cảm, lo âu.
- Các triệu chứng sinh sản, nội tiết: nóng bừng, đau khi quan hệ, khô âm đạo, rối loạn chức năng tình dục, khả năng sinh sản (ở phụ nữ có chức năng buồng trứng nguyên vẹn).
>> Xem thêm: Cách chăm sóc âm đạo sau ung thư vú hiệu quả và an toàn
2. Nguy cơ ung thư vú tái phát
Khám thực thể là nền tảng để phát hiện ung thư vú tái phát sau điều trị và các phương thức khác như MRI chỉ nên được sử dụng như công cụ hỗ trợ để làm rõ bất kỳ phát hiện thực thể nào.
Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ nghiên cứu ở những phụ nữ đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ vú và tái tạo vú để điều trị ung thư vú, việc chẩn đoán bằng MRI cho tỷ lệ phát hiện ung thư là 4,7 trên 1.000 lần khám tầm soát, nhưng chỉ có 1,1 trên 1.000 trường hợp thì khối u không thể sờ thấy sớm. [2]
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) khuyến nghị tầm soát bằng MRI hoặc siêu âm với ngực tái tạo bằng túi ngực silicon sau 5 – 6 năm và cứ 2 – 3 năm sau đó để phát hiện khả năng vỡ túi ngực.
3. Tái khám theo dõi tình trạng bệnh
Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO) gợi ý rằng người bệnh ung thư vú giai đoạn đầu (khối u <5cm và ít hơn 4 hạch huyết dương tính) nên được tư vấn về chiến lược theo dõi sau điều trị ung thư vú và điều trị phù hợp. Với người bệnh được điều trị nội tiết tố hỗ trợ, các quyết định điều trị trong thời gian dài cần được lựa chọn sáng suốt và phải theo dõi định kỳ để đánh giá hiệu quả điều trị.
Hơn nữa, người bệnh nên hỏi bác sĩ nếu có nghi ngờ hoặc có triệu chứng cho thấy bệnh tái phát hay có những thắc mắc về sự an toàn của một số biện pháp can thiệp (ví dụ, estrogen âm đạo ở người bệnh bị viêm teo âm đạo). Những người bệnh sau khi được điều trị khỏi ung thư vú nên được lên kế hoạch tầm soát, chăm sóc và phòng ngừa tái phát phù hợp với lứa tuổi, theo các khuyến nghị của bác sĩ hay các yếu tố khác không liên quan đến ung thư vú và cách điều trị.

Tiếp cận chăm sóc người bệnh và theo dõi sau điều trị ung thư vú thế nào?
Tiếp cận chăm sóc người bệnh và theo dõi sau điều trị ung thư vú như sau:
1. Thăm khám định kỳ
Bệnh sử và khám lâm sàng là phương tiện chính để phát hiện ung thư vú tái phát. Bác sĩ khuyến nghị người bệnh nên tái khám 3-6 tháng/lần trong 3 năm đầu sau đợt điều trị ban đầu, cứ 6-12 tháng/lần trong 2 năm tiếp theo và sau đó hàng năm. Điều này phù hợp với hướng dẫn năm 2015 của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO).
Tuy nhiên, lịch trình này có thể thay đổi tùy vào nguy cơ của mỗi người. Ngoài yếu tố bệnh sử, việc theo dõi sau điều trị ung thư vú cần chú ý đến các triệu chứng tái phát cục bộ cũng như di căn. Người bệnh cũng nên hỏi về lưu ý khi điều trị bằng những phương pháp hỗ trợ được khuyến nghị.
Cần thu thập bất kỳ thay đổi nào liên quan đến tiền sử bệnh của gia đình, điều này có thể quan trọng với các cuộc tư vấn di truyền. Bệnh sử nên bao gồm những thay đổi trong môi trường xã hội của người bệnh (bao gồm tình trạng bạn tình, những vấn đề trong cuộc sống, cách sắp xếp cuộc sống và các vấn đề nghề nghiệp) có thể phát sinh kể từ khi kết thúc điều trị. Việc đánh giá hệ thống không chỉ tầm soát bệnh di căn mà còn xác định các vấn đề liên quan đến điều trị trước đó.
Theo dõi sau điều trị ung thư vú nên thực hiện kiểm tra thể chất toàn diện trong mỗi lần khám, phù hợp với hướng dẫn của ASCO, bao gồm:
- Khám vú, thành ngực và nách: nên khám kỹ lưỡng vú bị ảnh hưởng và thành ngực bên đối diện, vùng nách 2 bên và hố thượng đòn. Với người bệnh đã được điều trị bảo tồn vú, bác sĩ sẽ kiểm tra các thông tin trước đó với vú bị chiếu xạ. Việc khám vú ở người bệnh trải qua xạ trị bổ trợ có thể không có tác dụng. Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ phát hiện độ nhạy và độ đặc hiệu của khám tầm soát lần lượt dao động từ 29%-74% và từ 17%-30%. Khám vú bị ảnh hưởng bao gồm những thay đổi sau phẫu thuật và sau xạ trị, có thể hữu ích trong việc ghi lại và theo dõi quá trình kiểm tra theo thời gian. Bằng chứng tái phát tại chỗ bao gồm các khối u mới được phát hiện (trên da, trong vú hoặc các vùng hạch). Những phát hiện đáng lo ngại khác có thể bao gồm những thay đổi ở da và vú. Với những phụ nữ đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ vú có hoặc không có tái tạo vú, vị trí vết mổ và vùng da xung quanh thành ngực cần được kiểm tra bằng mắt và sờ nắn để phát hiện những bất thường.
- Khám cơ xương: nếu nghi ngờ có phù bạch huyết, việc khám cánh tay bao gồm đo chu vi của cả 2 tay. Ngoài ra, nên thường xuyên sờ nắn cột sống, xương ức, xương sườn và xương chậu để kiểm tra độ mềm của xương.
- Khám phổi: đánh giá âm thanh hơi thở và sự thay đổi bộ gõ.
- Khám bụng: đánh giá tình trạng đau ở hạ sườn phải và/hoặc các cơ quan to.
- Khám tim: đánh giá suy tim.
- Khám thần kinh: đánh giá sự cân bằng, dáng đi, chức năng cảm giác và vận động.
- Khám phụ khoa: nên theo dõi phụ khoa thường xuyên với người bệnh chưa cắt tử cung toàn bộ. Điều này đặc biệt quan trọng ở những phụ nữ đang dùng tamoxifen vì nguy cơ gia tăng các khối u nội mạc tử cung.

2. Chụp X-quang tuyến vú
Mục đích của chụp X-quang tuyến vú sau điều trị nhằm phát hiện các đợt tái phát cục bộ cùng bên sau liệu pháp bảo tồn vú (BCT), tình trạng này xuất hiện ở 4% phụ nữ được điều trị ung thư vú giai đoạn đầu. Ngoài ra, chụp nhũ ảnh được thực hiện để theo dõi ung thư vú đối bên. Với những phụ nữ cần theo dõi sau điều trị ung thư vú trong thời gian dài, nên thực hiện kiểm tra chụp X-quang tuyến vú hàng năm.
Bác sĩ thường chụp X-quang tuyến vú để chẩn đoán hàng năm trong 3-5 năm đầu tiên sau khi điều trị và sau đó chuyển sang chụp X-quang tuyến vú để tầm soát. Chụp nhũ ảnh trong vài năm đầu tiên sau chẩn đoán để phát hiện các ung thư tái phát và tế bào ung thư còn sót lại với một tỷ lệ nhỏ sau phẫu thuật và xạ trị.
Mặc dù bằng chứng còn hạn chế nhưng chụp nhũ ảnh kiểm tra mô vú còn sót lại sau phẫu thuật bảo tồn vú hoặc phẫu thuật cắt bỏ vú một bên dường như có liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong ở phụ nữ ở mọi lứa tuổi.
Viện Y tế Quốc gia Hòa Kỳ nghiên cứu năm 2008 so sánh việc sử dụng phương pháp chụp nhũ ảnh ở những phụ nữ trên 65 tuổi điều trị ung thư vú (thành công hoặc thất bại) và những người sống được ít nhất 30 tháng sau khi được chẩn đoán ung thư vú. Những phụ nữ đã chụp X-quang tuyến vú kiểm tra trong vòng 1 năm có tiên lượng sống tốt hơn.
- Tái phát tại chỗ: X-quang tuyến vú phát hiện các tổn thương sớm hơn với tiên lượng tốt hơn và khả năng sống được cải thiện so với khi được phát hiện bằng các phương tiện khác. Tuy nhiên, việc tầm soát bằng chụp X-quang tuyến vú ở phụ nữ có tiền sử ung thư vú cho hiệu quả kém hơn (độ nhạy và độ đặc hiệu thấp hơn) so với những phụ nữ không có tiền sử ung thư vú.
- Ung thư vú đối bên: không có thử nghiệm ngẫu nhiên nào đề cập đến vai trò hoặc tác động của chụp nhũ ảnh đến tiên lượng sống khi phát hiện ung thư vú đối bên. Tuy nhiên, những người bệnh điều trị khỏi ung thư vú là nhóm có nguy cơ cao, được chụp nhũ ảnh ở vú đối bên thường xuyên nên được phát hiện sớm.
Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ đã so sánh kết quả giữa phụ nữ điều trị ung thư vú thành công, trong đó cả khám thực thể và chụp X-quang tuyến vú đều được thực hiện để theo dõi sau điều trị với một nhóm phụ nữ chỉ được theo dõi bằng khám thực thể. Mặc dù tần suất ung thư vú đối bên là tương tự nhau ở cả 2 nhóm, nhưng tỷ lệ tái phát hạch âm tính nhiều hơn ở những phụ nữ chỉ sử dụng phương pháp chụp nhũ ảnh định kỳ (tương ứng là 75% so với 57%). [3]
Với người bệnh đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ vú, việc kiểm tra theo dõi sau điều trị ung thư vú thường được thực hiện bằng khám thực thể. Chụp X-quang tuyến vú định kỳ bị hạn chế về mặt kỹ thuật ở những người bệnh được cấy ghép bộ phận giả và thường không chỉ định.
Tuy nhiên, chụp nhũ ảnh khả thi về mặt kỹ thuật sau tái tạo vạt da cơ tự sinh, đặc biệt sau tái tạo vạt da cơ thẳng bụng ngang (TRAM) hoặc vạt xuyên vì mô mỡ ở bụng chiếm phần lớn mô vú được tái tạo. Phương pháp chụp nhũ ảnh được tái tạo TRAM để phát hiện các mô còn sót lại trên thành ngực, có thể hình thành khối u mới.
Tiếp tục chụp nhũ ảnh tầm soát an toàn cho những người bệnh lớn tuổi với tình trạng chức năng và tuổi thọ phù hợp. Chụp X-quang tuyến vú giảm nguy cơ tử vong do ung thư vú, ngay cả ở phụ nữ lớn tuổi. Bác sĩ thường áp dụng chụp nhũ ảnh 6-12 tháng sau khi hoàn thành trị liệu tại chỗ, sau đó chụp nhũ ảnh hàng năm cho phụ nữ khỏe mạnh và ngừng chụp nhũ ảnh tầm soát ở những người bệnh có tiên lượng sống từ 5-10 năm.

2. Khám vùng chậu
Không khuyến khích siêu âm gan hay chụp CT vùng bụng chậu để theo dõi sau điều trị ung thư vú. Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ thống kê trong 2.400 người bệnh chụp CT vùng chậu 6.628 lần trong 9 năm, chỉ xuất hiện tình trạng di căn vùng chậu ở 13 người bệnh (0,5%). Tuy nhiên, điều này đã kéo theo hơn 200 thủ tục chụp X-quang và 50 thủ tục phẫu thuật bổ sung, trong đó 84% mang lại kết quả lành tính hoặc âm tính.
3. Kiểm tra mật độ xương
Phụ nữ có tiền sử ung thư vú có thể tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương do điều trị ung thư trước đó. Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ hướng dẫn thực hiện đánh giá tầm soát cơ bản (thường bằng phép đo hấp thụ tia X năng lượng kép) ở những người bệnh sau:
- Phụ nữ trên 65 tuổi.
- Phụ nữ từ 60-64 tuổi có bất kỳ yếu tố nào sau đây: tiền sử gia đình mắc bệnh loãng xương, khối lượng cơ thể <70kg, tiền sử gãy xương không do chấn thương hoặc các yếu tố nguy cơ khác gây loãng xương (ví dụ: hút thuốc, lối sống ít vận động, sử dụng rượu).
- Phụ nữ sau mãn kinh đang dùng thuốc ức chế aromatase (AI), bao gồm cả những người đã được khuyến nghị sử dụng AI nhưng chưa bắt đầu sử dụng.
- Phụ nữ tiền mãn kinh bị mãn kinh sớm do điều trị.
Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cụ thể về việc đánh giá mật độ xương có giá trị ban đầu nếu người bệnh đã có kế hoạch điều trị bằng bisphosphonate hoặc chất kích hoạt thụ thể của liệu pháp ức chế phối tử yếu tố kappa-B (RANKL), bất kể kết quả ra sao. Trong trường hợp đó, đánh giá mật độ xương khi hoàn thành điều trị bằng chất ức chế bisphosphonate hoặc RANKL có thể có giá trị hơn.
Ngoài ra, vẫn chưa rõ việc bổ sung vitamin D có vai trò gì ở phụ nữ được điều trị ung thư vú cũng như liệu có nên kiểm tra mức độ vitamin D thường xuyên hay không. Trong trường hợp không có dữ liệu tiền cứu để xác định cụ thể về lợi ích ở những người bệnh này, việc đánh giá nồng độ vitamin D và vai trò của việc bổ sung vitamin D với phụ nữ có lượng vitamin D thấp nên tuân theo hướng dẫn tương tự như với phụ nữ không có tiền sử ung thư vú.
4. Các xét nghiệm khác
4.1 Chụp cộng hưởng từ vú (MRI)
MRI không được khuyến khích áp dụng thường xuyên để theo dõi sau điều trị ung thư vú vì những lợi ích chưa rõ ràng ở nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, chụp MRI vú cho người bệnh sau điều trị ung thư vú trong các trường hợp sau:
Với những phụ nữ đã trải qua liệu pháp bảo tồn vú có nguy cơ cao mắc khối u nguyên phát thứ hai (nguy cơ suốt đời> 20%), dựa trên đột biến gen nhạy cảm với ung thư vú (BRCA) đã biết, tiền sử mắc ung thư vú bộ ba âm tính khi còn nhỏ hay có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú… Chụp MRI vú như một công cụ tầm soát ở những phụ nữ có nguy cơ cao:
- Với những người bệnh nghi ngờ ung thư vú tái phát (ví dụ: trên cơ sở khám lâm sàng).
- Sau điều trị bảo tồn vú, chụp nhũ ảnh, siêu âm vú, không có kết luận chính xác.
- Sau phẫu thuật cắt bỏ vú, nếu siêu âm không kết luận được. Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ thông tin việc chụp MRI định kỳ sau điều trị ung thư vú không mang lại lợi ích gì. Độ nhạy và độ đặc hiệu của MRI trong phát hiện ung thư vú tái phát không tốt hơn chụp nhũ ảnh. [4]
Trong một phân tích tổng hợp 16 nghiên cứu ở những người bệnh ung thư vú trước đó đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ vú (có hoặc không tái tạo), chụp MRI chỉ phát hiện ung thư ở 5,2 trên 1.000 lần khám tầm soát (0,5%). Trong đó, phần lớn các trường hợp ung thư được phát hiện đều có thể sờ thấy được. không nên chụp MRI khi không có kết quả khám lâm sàng.
4.2 Siêu âm
Việc sử dụng siêu âm vú định kỳ như một phần của việc theo dõi sau điều trị ung thư vú. Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ ghi nhận việc bổ sung siêu âm vú vào chụp nhũ ảnh tầm soát tăng hiệu quả chẩn đoán nhưng cũng làm tăng tỷ lệ kết quả dương tính giả và giảm tỷ lệ dự đoán dương tính.
Trong một phân tích tổng hợp ở những phụ nữ mắc ung thư vú đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ vú (có hoặc không tái tạo), tỷ lệ phát hiện ung thư bằng sàng lọc siêu âm định kỳ chỉ là 2,7 trên 1.000 lần khám (0,3%), nhưng phần lớn các bệnh ung thư được phát hiện đều có thể sờ thấy được. Tóm lại, không nên tầm soát bằng siêu âm ở những người bệnh không có kết quả khi khám thực thể. [5]
4.3 Tư vấn di truyền
Người bệnh theo dõi sau điều trị ung thư vú chưa xét nghiệm di truyền có thể là ứng cử viên thích hợp để xét nghiệm. Xét nghiệm đột biến gen (BRCA) đóng vai trò quan trọng và cần được cân nhắc. BRCA dành cho nam giới và phụ nữ được chẩn đoán ở độ tuổi từ 50 trở xuống và/hoặc có tiền sử gia đình mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng.
Nếu phụ nữ mắc ung thư vú bộ ba âm tính (không biểu hiện thụ thể estrogen [ER], thụ thể progesterone [PR] hoặc biểu hiện quá mức thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì ở người [HER2]), nên xem xét làm xét nghiệm dưới 60 tuổi. Trước đó, người bệnh và người thân phải được tư vấn về những kết quả xét nghiệm cả về mặt y tế và tâm lý xã hội.

Xét nghiệm di truyền để theo dõi sau điều trị ung thư vú rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét nghiệm ở các thành viên khác trong gia đình. Khi một đột biến cụ thể đã được xác định, việc kiểm tra các thành viên khác trong gia đình đơn giản hơn về mặt kỹ thuật. Mặc dù có thể bắt đầu quá trình xét nghiệm di truyền ở một cá nhân không bị ảnh hưởng, nhưng có nhiều khả năng những kết quả này sẽ không thuyết phục.
Do đó, người bệnh sau điều trị ung thư vú nên được xét nghiệm, đặc biệt nếu con và người thân thế hệ thứ nhất nên được quan tâm đến tính nhạy cảm di truyền cá nhân.
Các xét nghiệm chuyên sâu: Chẩn đoán sớm bệnh di căn, chỉ dựa vào chẩn đoán hình ảnh trước khi xuất hiện các dấu hiệu hoặc triệu chứng lâm sàng giúp can thiệp sớm hơn nhưng không cải thiện khả năng sống của người bệnh. Mặc dù một tỷ lệ nhỏ người bệnh có bệnh di căn hạn chế (ví dụ di căn phổi hoặc gan) có thể được điều trị bằng phương pháp tiếp cận đa phương thức, nhưng liệu những người bệnh này có được xác định tốt nhất bằng các xét nghiệm sau điều trị chuyên sâu hay không vẫn chưa được biết rõ.
Hơn nữa, các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và chẩn đoán hình ảnh được sử dụng để kiểm tra có tỷ lệ dương tính giả và âm tính giả đáng kể và chi phí tăng lên. Việc xét nghiệm bổ sung không cần thiết do kết quả dương tính giả tạo sự trấn an sai lệch, xét nghiệm âm tính giả gây bất lợi đến người sau điều trị ung thư vú.
Do đó, không nên thực hiện các xét nghiệm sau ở phụ nữ không có triệu chứng:
- Xét nghiệm chức năng gan: xét nghiệm chức năng gan định kỳ ở phụ nữ không có di căn gan.
- Dấu hiệu khối u trong huyết thanh: một số dấu hiệu huyết thanh hiện có có thể phát hiện tái phát sớm ung thư vú, bao gồm CA 15-3, kháng nguyên carcinoembryonic (CEA) và CA 27.29. Những dấu hiệu sinh hóa này của ung thư vú tăng lên cùng với giai đoạn bệnh tiến triển và phản ánh tình trạng bệnh nghiêm trọng trên toàn cơ thể. Tuy nhiên, các dấu hiệu này không nhạy cũng như không đặc hiệu đối với việc tái phát ung thư vú. Do đó, việc đo các dấu hiệu khối u trong huyết thanh chỉ nên sử dụng để theo dõi đáp ứng điều trị của người bệnh ung thư vú di căn trong trường hợp không có bệnh tiến triển dễ đo lường.
- Chẩn đoán hình ảnh ngực: không nên chụp X-quang ngực hay chụp cắt lớp vi tính (CT) để tầm soát di căn phổi ở người bệnh không có triệu chứng. Trong số 416 người bệnh được theo dõi bằng chụp nhũ ảnh định kỳ sau khi hoàn thành điều trị ban đầu cho bệnh ung thư vú, chỉ có 9 người bệnh có di căn phổi khu trú.
- Quét xương và phosphatase kiềm trong huyết thanh: không có bằng chứng nào cho thấy việc phát hiện sớm di căn xương làm thay đổi diễn biến lâm sàng của bệnh. Di căn đến xương hầu như luôn được chẩn đoán bằng các triệu chứng, ngay cả khi người bệnh được theo dõi định kỳ bằng chụp cắt lớp xương. Quét xương có độ nhạy và độ đặc hiệu ước tính để phát hiện di căn xương lần lượt là khoảng 86% và 81%. Alkaline phosphatase không nhạy cũng không đặc hiệu với di căn xương. Trong số 1.601 người bệnh bị ung thư vú dương tính với hạch, phosphatase kiềm chỉ tăng ở một nửa số người bệnh di căn xương, trong khi xét nghiệm lại bất thường ở 28% những người không có di căn xương. [6]
- Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) không có vai trò gì trong việc theo dõi sau điều trị. Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ ghi nhận quét PET luôn nhạy hơn so với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh thông thường và dấu hiệu khối u trong huyết thanh để chẩn đoán sớm bệnh tái phát. Tuy nhiên, dường như phương pháp này không mang lợi ích về khả năng sống hoặc chất lượng cuộc sống.
Tế bào khối u tuần hoàn (CTC) và DNA khối u tuần hoàn (ctDNA)
Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ không ủng hộ việc sử dụng các dấu ấn khối u, CTC hoặc gần đây hơn là ctDNA để đánh giá khả năng tái phát sau khi điều trị ung thư vú nguyên phát. Mặc dù sự hiện diện của CTC có liên quan đến tiên lượng xấu hơn với những người bệnh ung thư vú giai đoạn đầu, nhưng dữ liệu còn hạn chế và không hỗ trợ việc sử dụng kết quả để đưa ra quyết định lâm sàng thông thường về phương pháp điều trị bổ trợ hoặc đánh giá tái phát.
Sự hiện diện của ctDNA cũng có liên quan đến sự tái phát ở giai đoạn theo dõi sớm và muộn hơn sau điều trị ung thư vú giai đoạn đầu. Tuy nhiên, ctDNA không hỗ trợ việc đưa ra quyết định trong quá trình theo dõi.
Tất cả phụ nữ mắc bệnh ung thư vú nên được tư vấn về vai trò của xét nghiệm và tư vấn di truyền. Không nên thực hiện các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm hoặc chụp ảnh X-quang để tầm soát tái phát xa ở những bệnh nhân không có triệu chứng.
Cách trở lại cuộc sống hàng ngày sau điều trị ung thư vú
Cách trở lại cuộc sống hàng ngày sau điều trị ung thư vú là thúc đẩy lối sống khỏe mạnh. Người bệnh thường hỏi bác sĩ có thể làm gì để cải thiện kết quả chung của bệnh ung thư vú. Sửa đổi lối sống có thể là một cách hiệu quả để tăng cường sức khỏe, thể chất và tinh thần ở những người bệnh sau điều trị ung thư vú và có thể cải thiện bệnh tật nói chung.
Theo Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, việc tập thể dục, tránh béo phì và giảm thiểu uống rượu giúp giảm nguy cơ tái phát và tử vong do ung thư vú ở những người bệnh sau điều trị. Cụ thể:
1. Hoạt động thể chất, chế độ ăn uống và khối lượng cơ thể
Trong việc theo dõi sau điều trị ung thư vú, chế độ ăn uống, hoạt động thể chất và cân nặng được coi là các yếu tố cân bằng năng lượng chung vì các yếu tố này mô tả mối quan hệ giữa năng lượng tiêu thụ (chế độ ăn uống), năng lượng tiêu hao (hoạt động thể chất) và năng lượng dự trữ (adiposity). Từ đó liên quan đến kết quả sau điều trị ung thư, đặc biệt ở những người theo dõi sau ung thư vú.

Một vấn đề dinh dưỡng mà những người sau điều trị ung thư vú quan tâm là tác động của các sản phẩm đậu nành (có chứa phytoestrogen) với tỷ lệ tái phát ung thư vú.
Mặc dù không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy đậu nành ảnh hưởng đến nguy cơ tái phát, nhưng nguy cơ về mặt lý thuyết cho rằng phytoestrogen có thể kích thích sự phát triển của các tế bào ung thư nhạy cảm với nội tiết tố, làm tăng mối lo ngại rằng việc tiêu thụ nhiều đậu nành có thể gây nguy hiểm. Vì vậy, việc điều chỉnh lượng đậu nành thường được đề xuất.
Sự an toàn và hiệu quả của nhiều liệu pháp bổ sung dinh dưỡng khác bao gồm vitamin liều cao và các nguyên tố vi lượng như selen, kẽm và đồng vẫn chưa chắc chắn. Mức vitamin D cao hơn tại thời điểm chẩn đoán có liên quan đến tiên lượng tốt hơn, đặc biệt ở phụ nữ tiền mãn kinh. Tuy nhiên không có dữ liệu cho biết tác động tiềm ẩn của việc bổ sung vitamin D với nguy cơ tái phát.
2. Các liệu pháp bổ sung
Bao gồm bấm huyệt, chánh niệm, liệu pháp âm nhạc và yoga đã được xem là phương pháp điều trị cho những người bệnh sau điều trị ung thư. Mặc dù không có bằng chứng cho thấy những can thiệp này làm giảm tái phát nhưng các phương pháp này có thể cải thiện chất lượng sống và tâm trạng.
Trong một thử nghiệm trên 424 người bệnh được theo dõi sau điều trị ung thư vú không di căn được chỉ định ngẫu nhiên vào phương pháp bấm huyệt thư giãn, bấm huyệt kích thích hoặc chăm sóc thông thường, cả 2 tay bấm huyệt đều giảm mệt mỏi dai dẳng và bấm huyệt thư giãn cũng cải thiện chất lượng giấc ngủ và chất lượng sống.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy một số cải thiện ở tình trạng đau khớp bằng châm cứu thật so với châm cứu giả ở những phụ nữ dùng thuốc ức chế aromatase. Mặc dù những người bệnh sau điều trị ung thư vú có thể gặp các tác dụng phụ về tâm lý và thể chất do chẩn đoán và điều trị ung thư, một số bằng chứng cho thấy sự cải thiện các triệu chứng này khi thực hành chánh niệm.
Chánh niệm liên quan đến việc nhận thức và chấp nhận những trải nghiệm hiện tại của một người, bao gồm suy nghĩ, cảm xúc và cảm giác thể chất. Trong một nghiên cứu trên 322 người bệnh sau điều trị ung thư vú được chỉ định ngẫu nhiên vào chương trình giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm kéo dài 6 tuần hoặc chăm sóc thông thường, người bệnh trong nhóm nghiên cứu đã có sự cải thiện ở một loạt các triệu chứng, bao gồm sợ tái phát, lo lắng và mệt mỏi.
Trong một thử nghiệm khác với 71 người bệnh được theo dõi sau điều trị ung thư vú, thực hành chánh niệm trong 6 tuần đã giúp giảm căng thẳng và các dấu hiệu viêm nhiễm. Những cải thiện về tình trạng mệt mỏi, giấc ngủ, các triệu chứng vận mạch (sự lưu thông máu trong cơ thể) và ảnh hưởng lâm sàng.
Tuy nhiên, sau 3 tháng theo dõi, nhiều tác dụng trong số này không được duy trì, cho thấy việc thực hành liên tục chánh niệm thay vì tham gia 1 lần vào chương trình đào tạo có thể là chìa khóa để phát huy lợi ích lâu dài.
3. Uống rượu
Bằng chứng cho thấy rượu có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư tái phát bị hạn chế. Trong nghiên cứu liên quan đến 1.897 phụ nữ sau điều trị ung thư vú (trung bình 2 năm sau chẩn đoán), những người uống ≥6gr rượu mỗi ngày (tương đương với ít nhất 3 đến 4 ly rượu mỗi tuần) có tỷ lệ tái phát và tử vong cao hơn đáng kể so với những người uống <0,5gr mỗi ngày. Phụ nữ thừa cân và sau mãn kinh dường như chịu tác hại lớn nhất từ việc uống rượu và nguy cơ tái phát ung thư vú.
Một số biến chứng có thể gặp cần theo dõi sau điều trị ung thư vú
Một số biến chứng có thể gặp cần theo dõi sau điều trị ung thư vú như:
1. Vấn đề sinh sản
Những người trẻ sau điều trị ung thư vú có thể bị vô sinh sau do nhiễm độc tuyến sinh dục liên quan đến hóa trị và cần trì hoãn việc sinh con khi dùng liệu pháp hormone. Các khuyến nghị về thời điểm mang thai sau điều trị ung thư:
- Bác sĩ thường khuyên phụ nữ nên đợi ít nhất 2 năm kể từ thời điểm chẩn đoán và điều trị để mang thai. Lý do chính là để chắc chắn rằng người bệnh không bị ung thư tái phát sớm.
- Người bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormone được điều trị bằng liệu pháp hormone hỗ trợ. Theo Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, việc gián đoạn tạm thời liệu pháp nội tiết hỗ trợ không làm tăng nguy cơ ung thư vú trong thời gian ngắn.
- Nghiên cứu đã kiểm tra tỷ lệ tái phát ung thư ở 516 người bệnh mong muốn mang thai đã được điều trị nội tiết hỗ trợ trong 18-30 tháng với ung thư vú giai đoạn I-III. Thời gian gián đoạn điều trị nội tiết có thể lên tới 2 năm để cho phép mang thai, sinh con và cho con bú. Hầu hết người bệnh (94%) mắc ung thư ở giai đoạn I hoặc II.
- Tuy nhiên, do nguy cơ dị tật thai nhi, bác sĩ khuyến khích phụ nữ có tiền sử ung thư vú dương tính với thụ thể hormone nên đợi ít nhất 3 tháng kể từ khi ngừng tamoxifen. (có thể có thuốc ức chế buồng trứng, thuốc ức chế aromatase và thuốc ức chế buồng trứng) trước khi cố gắng mang thai.
- Những phụ nữ được điều trị bằng trastuzumab với ung thư vú dương tính với thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 (HER2) nên sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong ít nhất 7 tháng sau khi ngưng dùng trastuzumab trước khi cố gắng mang thai vì tình trạng thiểu ối liên quan đến trastuzumab với thai nhi, có thể dẫn đến thiểu sản phổi và trẻ sơ sinh chết.
Với những phụ nữ có tiền sử ung thư vú, lần mang thai tiếp theo dường như không ảnh hưởng đến tiên lượng sống. Trong một hệ thống gồm 36 nghiên cứu bao gồm hơn 112.000 người bệnh mắc ung thư vú, trong đó 7.505 người mang thai lần sau, những người mang thai có tỷ lệ sống không mắc bệnh tốt hơn và tiên lượng sống giống với những người không mang thai.
Với những kết quả sau theo dõi sau điều trị ung thư vú, chỉ những người khỏe mạnh sau điều trị ung thư vú mới có thể thụ thai và mang thai. Ngoài ra, theo Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, mang thai sau ung thư vú là an toàn bất kể tình trạng thụ thể estrogen.
Với những phụ nữ mang gen nhạy cảm với ung thư vú (BRCA) có tiền sử ung thư vú, mang thai không liên quan đến việc tăng nguy cơ tái phát ung thư vú hoặc biến chứng thai kỳ.

Tránh thai sau ung thư vú: hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới về điều kiện để sử dụng biện pháp tránh thai đã khuyến nghị không tránh thai bằng nội tiết tố ở những phụ nữ có tiền sử ung thư vú (đặc biệt ở những người mắc bệnh dương tính với thụ thể hormone).
Người bệnh nên ưu tiên các phương pháp tránh thai không nội tiết tố (bao cao su, màng ngăn, vòng tránh thai), một số bệnh nhân có thể lựa chọn thiết bị tránh thai giải phóng levonorgestrel liều thấp (LNG-IUD) để tránh thai hoặc bảo vệ nội mạc tử cung bằng tamoxifen.
Người bệnh có nguy cơ tái phát thấp, phẫu thuật cắt bỏ vú hoặc có tiền sử ung thư có thể là đối tượng thích hợp cho lựa chọn này. Nếu người bệnh quan tâm đến LNG-IUD, bác sĩ sẽ thảo luận rằng khả năng hấp thu hormone toàn thân có thể sẽ thấp, mặc dù tính an toàn và hiệu quả của phương pháp này chưa rõ ràng. LNG-IUD là phương pháp bảo vệ nội mạc tử cung khỏi tác động của tamoxifen, không phải là phương pháp tránh thai.
2. Vấn đề chuyển đổi tim mạch
Người bệnh đã được điều trị ung thư vú có nguy cơ ảnh hưởng đến chuyển hóa tim, bao gồm: tăng huyết áp, tiểu đường và rối loạn lipid máu. Tầm soát và theo dõi sau điều trị ung thư vú định kỳ những vấn đề này rất cần thiết.
Trong một nghiên cứu bao gồm gần 15.000 người bệnh mắc ung thư vú mới được chẩn đoán, người bệnh có tỷ lệ tăng huyết áp cao hơn (10,9 so với 8,9%) và tiểu đường (2,1 so với 1,7%) sau 2 năm, với tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường cao hơn vẫn tiếp tục sau đó mười năm (9,3 so với 8,8 phần trăm); không tăng lipid máu.
3. Chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống bao gồm các khía cạnh thể chất, tinh thần, xã hội, kinh tế… Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ cho biết người bệnh được điều trị ung thư vú có chất lượng cuộc sống tốt, đặc biệt khi họ vượt qua thời gian điều trị. Tuy nhiên, người bệnh có thể tiếp tục gặp một số vấn đề kéo dài.
Ví dụ, trong một nghiên cứu bao gồm hơn 280 người khỏe mạnh sau điều trị ung thư (không có bằng chứng tái phát >7 năm) so với gần 170 người không có tiền sử ung thư vú, người bệnh chỉ bị ảnh hưởng đến chức năng nhận thức và tài chính. Phụ nữ trẻ (<40 tuổi khi được chẩn đoán) có nguy cơ bị suy giảm chất lượng sống sau điều trị ung thư vú và cần phải chú ý đến khả năng sinh sản cũng như các vấn đề tâm lý xã hội khi theo dõi.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tập thể dục giúp cải thiện chất lượng cuộc sống ở những người bệnh sau điều trị ung thư vú. Vì vậy, người bệnh nên được khuyến khích áp dụng lối sống năng động thể chất sau khi điều trị ung thư vú.
Chăm sóc người bệnh ung thư vú sau điều trị
Các yếu tố cần thiết trong quản lý theo dõi sau điều trị ung thư vú, tuân thủ các khuyến nghị về lối sống và điều trị liên tục, điều trị các biến chứng và tâm lý xã hội, liệu pháp hỗ trợ điều trị ung thư cũng như phối hợp chăm sóc giữa các bác sĩ chuyên khoa. Việc theo dõi và tư vấn bao gồm:
- Việc theo dõi sau điều trị ung thư vú bao gồm cập nhật bệnh sử, khám lâm sàng thường xuyên và chụp nhũ ảnh. Việc theo dõi không chỉ tập trung vào kiểm tra khối u mà còn tập trung vào bất kỳ biến chứng nào liên quan đến điều trị, các vấn đề tâm lý xã hội và các vấn đề nghề nghiệp.
- Với những phụ nữ bị ung thư vú muốn tránh thai, bác sĩ khuyên người bệnh không nên sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết tố.
- Phối hợp chăm sóc, bác sĩ lâm sàng có thể theo dõi người bệnh sau liệu pháp điều trị ung thư vú ban đầu. Các bác sĩ có kinh nghiệm trong việc chẩn đoán theo dõi các biến chứng có thể phát sinh từ việc điều trị và khám vú, bao gồm cả khám vú đã được chiếu xạ. Việc chăm sóc theo dõi liên tục cần có sự giao tiếp và phối hợp chăm sóc.
Điều trị u vú lành và ác tính tại Khoa Ngoại vú, PlinkCare TP.HCM với hệ thống trang thiết bị hiện đại, đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm, làm việc phối hợp đa chuyên khoa như Chẩn đoán hình ảnh – Giải phẫu bệnh – Nội khoa Ung thư. Từ đó mang đến cơ hội điều trị tốt cho những người mắc bệnh liên quan đến tuyến vú nói chung và ung thư vú nói riêng.
Ngoài ra, khoa còn lập nhóm “CLB bệnh nhân ung thư vú bệnh viện Tâm Anh” giúp người bệnh có thể chia sẻ những khó khăn lo lắng với những người bệnh cùng hoàn cảnh.
Bên cạnh việc theo dõi sau điều trị ung thư vú, tất cả những người bệnh sau ung thư vú được khuyến nghị lối sống lành mạnh, bao gồm: tuân theo chế độ ăn uống hợp lý, duy trì tập thể dục, giảm thiểu uống rượu bia và hút thuốc. Bên cạnh đó, bác sĩ thường khuyên phụ nữ nên đợi ít nhất 2 năm kể từ khi được chẩn đoán trước khi cố gắng mang thai.