
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn: Nguyên nhân và triệu chứng
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn là gì?
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn (Mononucleosis) là bệnh nhiễm trùng cấp tính, dễ lây truyền. Tác nhân gây bệnh thường gặp nhất là virus Epstein-Barr (EBV). Căn bệnh này đôi khi còn được gọi là “bệnh hôn”, vì dễ lây truyền qua các chất dịch cơ thể, ví dụ như nước bọt. Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể xảy ra vào mọi thời điểm trong năm.
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn gây ra bởi virus Epstein-Barr hiện xuất hiện rất phổ biến và nhiều người có thể mang virus mà không biểu hiện triệu chứng. Ước tính khoảng 95% người Mỹ ở độ tuổi 35 đã mắc phải căn bệnh này.
Triệu chứng bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có các triệu chứng điển hình bao gồm: sốt, nổi hạch, viêm họng. Người bệnh thường gặp biểu hiện toàn thân như đau mỏi người, khó chịu, đau đầu kèm tình trạng sốt kéo dài nhiều tuần, sốt thất thường và có thể đối mặt với triệu chứng mệt mỏi trong thời gian dài.
Tình trạng nổi hạch ngoại vi thường xuất hiện đối xứng, hạch có kích thước trung bình, di động, mềm, nổi lên nhiều nhất trong tuần đầu khởi phát bệnh, sau đó tồn tại trong 2 – 3 tuần rồi dần nhỏ lại. Khoảng 85 – 90% ca bệnh bị viêm họng [1], cụ thể là viêm họng hạt, viêm amidan, có mảng giả mạc màu xanh xám hoặc màu trắng, đôi khi xuất hiện các vùng hoại tử trong họng.
Ngoài những triệu chứng điển hình này, người bệnh có thể chỉ bị sốt, nổi hạch nhưng không bị viêm họng. Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể biểu hiện tại một số cơ quan khác, ví dụ như:
- Lách to, ước tính xuất hiện ở khoảng 50% người bệnh. Kích thước của lách sẽ nhỏ dần sau tuần thứ ba của bệnh kể từ lúc khởi phát.
- Phát ban da, cụ thể là tổn thương dạng ban dát sẩn, mày đay hoặc có thể xuất hiện ban xuất huyết rải rác ở trên thân…

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Một số nguyên nhân có thể dẫn đến bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn bao gồm:
1. Virus Epstein-Barr
Virus Epstein-Barr (EBV hay HHV-4) là tác nhân gây ra hơn 90% ca bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn [2]. Loại virus này thuộc họ Herpesviridae, cấu trúc bao gồm phần vỏ ngoài bao bọc vật chất di truyền – DNA sợi xoắn kép. Virus Epstein-Barr được chia thành hai loại chính là EBV-1 và EBV-2.
Loại virus này có giai đoạn nhiễm trùng tiềm ẩn, tế bào vật chủ chính trong cơ thể người là tế bào lympho T, tế bào lympho B, tế bào NK, tế bào cơ và tế bào biểu mô. Virus Epstein-Barr có thể dẫn đến nhiều hội chứng, bệnh cảnh trên lâm sàng, chẳng hạn như bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, nhiễm trùng sơ sinh và chu sinh, tổn thương đa cơ quan (lách, hệ tạo máu, thần kinh trung ương, gan…), có thể gây bệnh ác tính.
2. Cytomegalovirus
Khoảng 5 – 7% trường hợp bị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do Cytomegalovirus (CMV hay HHV-5) gây ra [3]. Đây là một trong các virus gây bệnh ở người đã được biết đến từ lâu. Cytomegalovirus thuộc họ Herpesviridae với vật chất di truyền là DNA sợi xoắn kép. Trong họ virus Herpes, CMV là một trong những loại virus có kích thước lớn nhất. Loại virus này có chu kỳ nhân lên khoảng 24 giờ. Sự nhiễm trùng Cytomegalovirus có liên quan đến sự suy giảm ở chức năng của tế bào lympho T.
CMV có thể trốn hệ thống miễn dịch của cơ thể, sống bên trong tế bào vật chủ, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng tiềm tàng, khi có yếu tố thuận lợi nó sẽ tái hoạt và gây ra bệnh.
3. Tác nhân lây nhiễm khác
Toxoplasma gondii (một loại động vật nguyên sinh ký sinh) là tác nhân gây ra ít hơn 1% các trường hợp mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Một số nguyên nhân hiếm gặp khác gồm có: Adenovirus, virus Herpes khác (HHV-6, HHV-7…), virus Rubella, virus viêm gan…
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn lây nhiễm qua đâu?
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể lây truyền qua các con đường khác nhau. Bài viết này đề cập đến những con đường lây truyền của hai tác nhân gây bệnh thường gặp, bao gồm virus Epstein-Barr (EBV) và Cytomegalovirus (CMV):
1. Lây nhiễm EBV
Virus Epstein-Barr (EBV) có khả năng tồn tại lâu dài trong nước bọt của người bệnh (nhiều tháng thậm chí hơn 1 năm). Con đường lây truyền EBV chủ yếu thông qua nước bọt (khi hôn, dùng chung cốc uống nước, bàn chải…). Những con đường lây truyền khác ít gặp hơn bao gồm lây qua đường tình dục, lây từ mẹ sang con khi cho con bú…

2. Lây nhiễm CMV
Khi tiếp xúc nhiều lần, trong thời gian dài, sự lây truyền Cytomegalovirus mới có thể xảy ra. Các con đường lây nhiễm CMV thường gặp hơn bao gồm: lây qua đường quan hệ tình dục (đặc biệt là quan hệ không an toàn, quan hệ với nhiều bạn tình…), lây từ mẹ sang con (trẻ sơ sinh có thể bị lây nhiễm Cytomegalovirus ngay trong thời kỳ chu sinh hoặc bị lây nhiễm tại quá trình chuyển dạ khi có tiếp xúc với dịch cơ thể, máu của người mẹ bị nhiễm CMV, trẻ sau sinh có thể nhiễm CMV thông qua sữa mẹ).
Những con đường lây truyền khác bao gồm: truyền máu hoặc những chế phẩm máu có bạch cầu còn sống, cấy ghép mô của cơ thể bị nhiễm CMV…
Đối tượng dễ mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Có hai “đỉnh điểm” nhiễm EBV – tác nhân phổ biến gây bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, bao gồm: trẻ em ở độ tuổi đi học sớm và độ tuổi vị thành niên hoặc người trưởng thành trẻ tuổi. Trẻ nhỏ thường không khởi phát triệu chứng. Thế nhưng thanh thiếu niên và người trong độ tuổi 20 có nhiều nguy cơ bị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do nhiễm EBV hơn; ước tính 1 trong 4 người ở nhóm tuổi này nhiễm EBV sẽ mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có thể mắc phải căn bệnh này, bất kể tuổi tác.
Nguy cơ mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn gia tăng khi một người đã tiếp xúc với nước bọt của người bị nhiễm EBV. Những đối tượng khác như người có sinh hoạt tình dục không an toàn, trẻ bú mẹ bị nhiễm EBV… cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Trường hợp mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do nhiễm CMV có thể là nguyên phát, tái nhiễm hoặc virus tái hoạt động trở lại. Với người trưởng thành, nguy cơ nhiễm CMV tăng dần theo độ tuổi. Bất kỳ ai cũng có thể nhiễm CMV. Loại virus này có thể tồn tại hàng tháng, hàng năm trong cơ thể của vật chủ và gây ra tình trạng nhiễm trùng tiềm tàng và tái hoạt khi gặp điều kiện thuận lợi, chức năng miễn dịch của vật chủ đã bị suy giảm.
Một số đối tượng sẽ có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn, chẳng hạn như: tiếp xúc lâu dài với máu, dịch tiết của người bị nhiễm CMV, nhiều bạn tình, quan hệ tình dục không an toàn, truyền máu không an toàn… Trẻ có nguy cơ bị nhiễm trùng sơ sinh khi được sinh ra từ mẹ nhiễm CMV.

Biến chứng của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Biến chứng do bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn gây ra có thể rất nghiêm trọng, bao gồm:
- Lách to: Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể khiến lách to ra. Trong các trường hợp nặng, lách có thể bị vỡ, dẫn đến tình trạng đau nhói, cơn đau xuất hiện đột ngột ở phía trái của bụng trên [4].
- Những vấn đề về gan:
- Viêm gan: Người bệnh có thể bị viêm gan nhẹ.
- Vàng da: Đôi khi người bệnh gặp tình trạng vàng da và vàng mắt.
- Biến chứng ít phổ biến hơn:
- Thiếu máu: Giảm số lượng hồng cầu và hemoglobin – protein giàu sắt trong hồng cầu.
- Giảm tiểu cầu: Ở tình trạng này, số lượng tiểu cầu sẽ ở mức thấp. Tiểu cầu là những tế bào máu có sự tham gia vào quá trình đông máu trong cơ thể.
- Những vấn đề về tim: Người bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể gặp biến chứng viêm cơ tim.
- Biến chứng liên quan đến hệ thần kinh: Bao gồm chứng viêm não, viêm màng não, hội chứng Guillain-Barré…
- Viêm Amidan: Có thể làm cản trở hoạt động hô hấp.
Virus Epstein-Barr có thể gây ra bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn mức độ nghiêm trọng hơn ở những người có hệ miễn dịch bị suy yếu. Đối tượng có hệ miễn dịch suy yếu có thể bao gồm người bị HIV/AIDS, người sử dụng thuốc ức chế miễn dịch sau phẫu thuật ghép tạng…
Chẩn đoán bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
Nhìn chung, bác sĩ có thể chẩn đoán bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng thông qua các dấu hiệu, thời gian triệu chứng kéo dài… Bác sĩ sẽ tìm kiếm những dấu hiệu như sưng hạch bạch huyết, sưng amidan, lách to, gan to… và xem xét những dấu hiệu này có liên quan như thế nào đến các triệu chứng mà người bệnh đang gặp phải. Bác sĩ cũng có thể chỉ định cho người bệnh tiến hành thực hiện một số kỹ thuật xét nghiệm cận lâm sàng để xác định chính xác tác nhân gây bệnh.
1. Chẩn đoán bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do nhiễm EBV
Để chẩn đoán bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do EBV, bác sĩ cần dựa vào những triệu chứng gợi ý (viêm họng, sốt, nổi hạch, tổn thương lách, tổn thương gan, mệt mỏi…), xét nghiệm thấy số lượng bạch cầu lympho tăng, dựa vào kết quả xét nghiệm kháng thể heterophile và những xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên EBV như: kháng thể đặc hiệu EBV, kháng nguyên vỏ hoặc kháng nguyên nhân của virus EBV, phát hiện DNA virus…
- Kháng thể heterophile: Hình thành ở một số tình trạng nhiễm trùng và bệnh lý nhất định, máu sẽ bị ngưng kết lại khi xuất hiện kháng thể heterophile. Có thể phát hiện loại kháng thể này sau 2 – 9 tuần bị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Thế nhưng, kết quả dương tính cũng có thể xuất hiện ở những căn bệnh khác như lupus ban đỏ hệ thống, bệnh lymphoma, nhiễm HIV, ung thư tuyến tụy…
- Kháng thể đặc hiệu EBV (bao gồm kháng thể IgM và IgG): Mức độ IgM giảm sau khoảng 3 tháng kể từ lúc phơi nhiễm, IgG xuất hiện sau, tồn tại trong nhiều năm, thậm chí suốt đời.
- Kháng nguyên vỏ hoặc kháng nguyên nhân của EBV: Những kháng nguyên này xuất hiện sớm ở giai đoạn đầu của bệnh.
- Phát hiện DNA virus: Thường dùng kỹ thuật xét nghiệm PCR, ước tính khoảng 40 – 70% các trường hợp có thể phát hiện kể từ lúc xuất hiện triệu chứng; khoảng 90% trường hợp phát hiện DNA virus sau 2 tuần kể từ lúc khởi phát bệnh. Kỹ thuật xét nghiệm PCR còn có thể giúp đo tải lượng virus, qua đó gián tiếp đánh giá được mức độ nghiêm trọng của bệnh.

2. Chẩn đoán bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do nhiễm CMV
Biểu hiện lâm sàng của tình trạng nhiễm CMV không đặc hiệu, thế nên việc chẩn đoán cần dựa vào những xét nghiệm cận lâm sàng như: xét nghiệm phát hiện DNA hoặc kháng nguyên virus: xét nghiệm kháng nguyên CMV pp65 hoặc xét nghiệm PCR CMV; xét nghiệm huyết thanh học CMV IgG, CMV IgM; mô bệnh học và hóa mô miễn dịch; nuôi cấy virus.
- Với trẻ sơ sinh: Trước khi sinh, dùng bệnh phẩm nước ối để nuôi cấy virus, xét nghiệm PCR CMV hoặc tiến hành xét nghiệm CMV IgM trong máu của trẻ sơ sinh. Sau sinh dưới 3 tuần có thể dùng bệnh phẩm nước bọt hoặc nước tiểu để làm xét nghiệm nuôi cấy virus hoặc làm xét nghiệm PCR CMV.
- Với trẻ lớn và người trưởng thành:
- Xét nghiệm huyết thanh học: Kỹ thuật xét nghiệm này không phải là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, đặc biệt là với những người bị suy giảm miễn dịch. Kết quả xét nghiệm CMV IgM, CMV IgG dương tính cũng không khẳng định người bệnh đang bị nhiễm CMV hoạt động. Thế nhưng ở từng người bệnh cụ thể, việc thực hiện kỹ thuật xét nghiệm huyết thanh học sẽ hỗ trợ cho bác sĩ trong việc chẩn đoán.
- Xét nghiệm CMV pp65 hoặc xét nghiệm PCR CMV: Có giá trị trong việc phát hiện kháng nguyên virus và DNA của virus trong cơ thể. Xét nghiệm PCR CMV đo được tải lượng virus và được dùng phổ biến hơn. Thế nhưng, CMV có thể tồn tại, gây nhiễm trùng tiềm tàng trong nhiều năm và tái hoạt khi gặp điều kiện thuận lợi, thế nên dùng kết quả xét nghiệm PCR CMV hoặc CMV pp65 dương tính cũng không đủ tiêu chuẩn để khẳng định virus đang hoạt động. Việc chuẩn hóa tải lượng virus cần được cá thể hóa ở mỗi người bệnh.
- Mô bệnh học và nhuộm hóa mô miễn dịch: Đây là tiêu chuẩn vàng trong việc chẩn đoán tình trạng nhiễm CMV. Tế bào mắt cú là hình ảnh đặc trưng của mô bệnh học nhiễm loại virus này. Thế nhưng kỹ thuật này chỉ được áp dụng khi có thể thực hiện mô bệnh học, không phải tất cả người bệnh đều có thể thực hiện sinh thiết được. Xét nghiệm PCR CMV vẫn được khuyến cáo thực hiện trong lúc chờ kết quả mô bệnh học, do kết quả thường có sớm hơn và góp phần giúp bác sĩ cân nhắc chỉ định dùng liệu pháp kháng virus. Bên cạnh đó, theo dõi tải lượng virus trong quá trình chữa trị là việc làm cần thiết, giúp bác sĩ đánh giá khả năng đáp ứng điều trị.

Cách điều trị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn
Hiện nay, tình trạng nhiễm trùng do EBV chưa có phương pháp chữa trị đặc hiệu. Những cách chữa trị chủ yếu là điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ. Người bệnh có thể được hạ sốt, giảm đau bằng các thuốc paracetamol hoặc NSAIDs khác. Việc bù dịch, điện giải cũng có thể được thực hiện. Trong những trường hợp bị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn nặng hoặc xảy ra biến chứng, corticoid có thể được dùng, ví dụ như: khi trẻ có nguy cơ bị tắc nghẽn đường thở, thiếu máu tan máu, suy gan tối cấp…
Phần lớn trường hợp người trưởng thành nhiễm CMV nguyên phát không biểu hiện triệu chứng, có thể tự giới hạn sau một khoảng thời gian. Thuốc kháng virus thường được dùng ở người bệnh gặp triệu chứng, bị tổn thương cơ quan, người bị suy giảm miễn dịch, người mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn nặng. Những loại thuốc thường được dùng là cidofovir, foscarnet, ganciclovir…
Ở người bị suy giảm miễn dịch, liệu pháp kháng virus đã được chứng minh là mang đến hiệu quả, giúp cải thiện triệu chứng trên lâm sàng. Liều lượng dùng thuốc và thời gian chữa trị còn phụ thuộc vào tình trạng của từng người bệnh, có thể kéo dài từ 7 – 21 ngày với liều ganciclovir 5 mg/kg/ngày, valganciclovir với liều 900 mg/ngày.
Ở mẹ bầu, chưa có phương pháp nào được chứng minh mang đến hiệu quả tối ưu giúp ngăn ngừa bệnh tật cho trẻ sơ sinh, góp phần làm giảm các di chứng. Với tình trạng nhiễm trùng sơ sinh, bác sĩ có thể cân nhắc chỉ định dùng thuốc kháng virus ở từng trẻ. Bác sĩ có thể cân nhắc dùng liệu pháp kháng virus ở trẻ sinh non bị nhiễm CMV (biểu hiện triệu chứng lâm sàng nặng), trẻ bị suy giảm miễn dịch, nhiễm CMV (đang hoạt động)… Thuốc được dùng là valganciclovir với liều 15 mg/kg/mỗi 12 giờ hoặc ganciclovir với liều 5 mg/kg/ngày.
Đơn vị Huyết học lâm sàng, khoa Nội Tổng hợp, Hệ thống PlinkCare được nhiều người bệnh tin tưởng, lựa chọn đến thăm khám về tình trạng bạch cầu (bạch cầu đơn nhân, đa nhân, lympho,…) và chữa trị các bệnh lý về máu. Nơi đây quy tụ đội ngũ bác sĩ đầu ngành, được trang bị nhiều máy móc, thiết bị tiên tiến như hệ thống máy xét nghiệm tổng quát, xét nghiệm máu hiện đại…
Hướng dẫn phòng ngừa bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
Hiện vẫn chưa có vắc xin giúp ngăn ngừa bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Phương pháp tối ưu để phòng ngừa tình trạng nhiễm virus dẫn đến căn bệnh này là giữ gìn vệ sinh tốt. Bạn cần tránh dùng chung đồ uống, thức ăn hoặc tiếp xúc với dịch cơ thể của người bị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn hoặc người đang có bất kỳ dấu hiệu nào của bệnh do virus, chẳng hạn như ho, sốt, mệt mỏi, đau họng…
Một số cách ngăn ngừa khác gồm có: thực hiện an toàn truyền máu, dùng sữa tiệt trùng với trẻ được sinh ra từ mẹ nhiễm EBV/CMV… Việc chữa trị dự phòng bằng globulin miễn dịch với CMV hoặc dùng thuốc kháng virus được cân nhắc áp dụng trong một số trường hợp như người nhận tạng ghép từ người nhiễm CMV.

Câu hỏi thường gặp
Dưới đây là một số câu hỏi thường gặp về bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn:
1. Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có lây qua đường tình dục không?
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể lây qua đường tình dục. Cụ thể, hai tác nhân phổ biến gây ra bệnh lý này là virus Epstein-Barr (EBV) và Cytomegalovirus (CMV) có thể lây qua việc quan hệ tình dục, đặc biệt là khi quan hệ tình dục không dùng biện pháp an toàn, có nhiều bạn tình…
2. Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng có tái phát không?
Virus Epstein-Barr (EBV) vẫn tồn tại trong cơ thể ở dạng không hoạt động ngay cả khi những triệu chứng của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn biến mất. Thế nhưng hầu hết mọi người chỉ khởi phát căn bệnh này một lần. EBV hiếm khi gây ra triệu chứng nếu nó tái hoạt động. Tuy nhiên, người mang EBV tái hoạt động có thể vô tình lây truyền cho người khác. Và những người có hệ miễn dịch yếu có thể khởi phát triệu chứng nhiều hơn một lần.
Người bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn sau quá trình điều trị cần dành thời gian nghỉ ngơi, hồi phục, quay lại công việc và hoạt động hàng ngày quá sớm có thể làm tăng nguy cơ bị tái phát.
3. Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có nguy hiểm không?
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn có thể diễn tiến nghiêm trọng, gây ra các biến chứng nguy hiểm nếu không được xử trí đúng cách, kịp thời. Người bệnh có thể gặp những biến chứng như vỡ lách, viêm gan, thiếu máu, viêm não, viêm cơ tim…
Để đặt lịch thăm khám, điều trị bệnh tại Hệ thống PlinkCare, Quý khách vui lòng liên hệ:
Tóm lại, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn là bệnh lý có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm, nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời. Ngay khi gặp triệu chứng đáng ngờ, người bệnh cần nhanh chóng đến cơ sở y tế thăm khám.