
Bị sỏi tiết niệu có nguy hiểm không? 7 tác hại không ngờ
Nguyên nhân gây bệnh sỏi tiết niệu
Sỏi tiết niệu thường xuất hiện ở thận hoặc bàng quang do các chất tạo sỏi trong nước tiểu lắng đọng, tích tụ ở dạng tinh thể và di chuyển đến các vị trí khác nhau trong đường dẫn niệu.
Sỏi trên thận thường phát triển âm thầm, lớn dần theo thời gian, làm tắc nghẽn đường niệu, gây đau lưng, tiểu máu và nhiều biến chứng nguy hiểm như thận ứ nước, nhiễm khuẩn và suy giảm chức năng thận. Sỏi tiết niệu có nguy hiểm không phụ thuộc vào độ lớn sỏi, vị trí, mức độ tắc nghẽn,… (1)
Nguyên nhân tạo sỏi thận vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố liên quan đến sự hình thành sỏi niệu như chế độ ăn uống, tiền sử gia đình, một số bệnh đường tiêu hóa, rối loạn chuyển hóa cơ thể…
Các yếu tố nguy cơ phổ biến hình thành sỏi bao gồm:
- Uống ít nước.
- Chế độ ăn nhiều đạm có nguồn gốc động vật, nhiều oxalat (như bia, trái cây, khoai lang, khoai tây), nhiều muối…
- Các bệnh tiêu hóa, rối loạn hấp thu, phẫu thuật cắt đoạn ruột…
- Bệnh đường tiết niệu như xốp tủy thận, toan chuyển hóa ống thận, nhiễm khuẩn tái phát, bàng quang thần kinh…
- Các bệnh rối loạn chuyển hóa như tăng axit uric máu, cường tuyến cận giáp, tăng canxi máu…

Các loại sỏi tiết niệu
Dựa vào thành phần tạo nên sỏi, các loại sỏi tiết niệu thường gặp như sau:
- Sỏi canxi: Thành phần chủ yếu là canxi (calcium), chiếm khoảng 80% số ca sỏi tiết niệu, gồm có 2 loại:
- Canxi oxalate: Loại sỏi phổ biến nhất, chiếm 70% số ca sỏi tiết niệu. Các yếu tố liên quan bao gồm tăng canxi trong nước tiểu, cường tuyến cận giáp, giảm citrate niệu, toan hóa ống thận.
- Canxi phốt phát: Loại sỏi phổ biến thứ hai sau canxi oxalate. Những bệnh có thể gây ra sỏi canxi phốt phát giống với sỏi canxi oxalate.
- Sỏi axit uric (sỏi urat): Chiếm khoảng 10% số ca sỏi tiết niệu, liên quan đến nồng độ axit uric (acid uric) tăng cao và độ pH thấp trong nước tiểu. Người bệnh gout hoặc từng hóa trị có nguy cơ mắc sỏi axit uric cao hơn.
- Sỏi struvite (sỏi nhiễm trùng): Là hỗn hợp của magnesium (magiê), ammonium (amoni), phosphate (phốt phát), chiếm khoảng 3% số ca mắc sỏi tiết niệu. Sỏi được hình thành do tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài bởi các vi khuẩn có khả năng phân giải ure thành amoni. Amoni, magiê và phốt phát trong nước tiểu kết hợp lại tạo thành sỏi, các vi khuẩn cũng sẽ bám vào sỏi.
- Sỏi cystine (cystin): Sỏi có đặc tính di truyền do đột biến gen SLC3A1 và AL7A9. Đột biến ở 2 gen này làm rối loạn quá trình chuyển hóa một số axit amin, tăng hàm lượng cystine trong nước tiểu, tạo điều kiện cho sỏi hình thành. Đây là loại sỏi hiếm gặp, chỉ chiếm 1%-2% trong tổng số trường hợp sỏi tiết tiết niệu. Bệnh thường xuất hiện nhiều ở trẻ em, người trẻ, một số trường hợp ghi nhận sỏi xuất hiện ở trẻ sơ sinh.
Ngoài phân loại theo thành phần cấu tạo, sỏi tiết niệu có thể được phân loại theo vị trí. Sỏi tiết niệu hầu hết được hình thành ở thận và bàng quang và theo nước tiểu đến các vị trí khác trong đường dẫn niệu.
- Sỏi thận nằm ở trong đài thận và bể thận, có thể phát triển âm thầm trong thời gian dài mà không gây triệu chứng.
- Sỏi niệu quản là trường hợp sỏi từ thận di chuyển xuống niệu quản. Sỏi thường gây tắc nghẽn tại niệu quản, dẫn đến ứ nước thận và đau lưng. Tắc nghẽn sỏi ở niệu quản thường gây đau quặn thận do tắc nghẽn dòng chảy của nước tiểu.
- Sỏi bàng quang thường được hình thành do nước tiểu ứ đọng trong bàng quang hoặc do sỏi di chuyển từ niệu quản xuống.
- Sỏi niệu đạo là sỏi từ bàng quang di chuyển xuống và kẹt lại niệu đạo, rất hiếm khi sỏi được hình thành tại niệu đạo.

Sỏi tiết niệu có nguy hiểm không?
Sỏi tiết niệu có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bên cạnh đó mức độ nguy hiểm còn phụ thuộc vào một số yếu tố như vị trí, kích thước, loại sỏi và biến chứng mà sỏi gây ra.
Ví dụ, sỏi nhỏ có thể nằm trong thận một thời gian dài mà không gây bất kỳ triệu chứng gì. Tuy nhiên, nếu sỏi lớn hoặc gây tắc nghẽn đường dẫn niệu sẽ gây đau lưng, tiểu máu và các biến chứng như thận ứ nước, nhiễm khuẩn và suy giảm chức năng thận.
Các nguy cơ ở người có sỏi tiết niệu
Các nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe liên quan đến quá trình hình thành, thời điểm phát hiện và mức độ tắc nghẽn đường dẫn tiểu. Nếu phát hiện muộn sỏi có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Các biến chứng như thận ứ nước, nhiễm khuẩn sẽ làm suy giảm chức năng thận, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe thậm chí tính mạng người bệnh nếu không được chữa trị sớm.

1. Đau lưng
Đau lưng là triệu chứng thường gặp khi mắc sỏi đường tiết niệu. Đau lưng thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau như đau âm ỉ, dai dẳng hoặc đau dữ dội từng cơn. Nhiều người không hề biết mình mắc sỏi tiết niệu đến khi các cơn đau quặn thận xuất hiện. Đau quặn thận hay đau bão thận do sỏi kẹt trong niệu quản gây tắc nghẽn cấp tính. Cơn đau dữ dội thường xuất hiện đột ngột tại một bên hông lưng, có thể lan xuống bụng dưới và tinh hoàn hoặc kèm theo buồn nôn.
2. Tiểu máu
Tiểu máu là tình trạng các tế bào hồng cầu xuất hiện trong nước tiểu. Sỏi tiết niệu gây tiểu máu do tác động cọ xát lên niêm mạc đường tiểu. Tiểu máu ít khi xuất hiện đơn độc, thường đi kèm với các triệu chứng khác như đau lưng, tiểu gắt.
Bác sĩ khó có thể đánh giá chính xác sỏi tiết niệu có nguy hiểm không nếu chỉ xuất hiện một số triệu chứng như đau lưng hay tiểu máu, tiểu gắt buốt.
3. Rối loạn tiểu
Sỏi kẹt đoạn dưới niệu quản và sỏi đường tiểu dưới (bàng quang, niệu đạo) thường có các triệu chứng kích thích như tiểu nhiều lần, tiểu gắt và tiểu máu. Sỏi niệu quản thường gây đau lưng, buồn nôn, đi tiểu nhiều lần, tiểu máu. Trong khi sỏi bàng quang thường gây tiểu đau, ngắt quãng, tiểu máu. Khi sỏi kẹt ở cổ bàng quang hoặc niệu đạo có thể khiến người bệnh đi tiểu rất khó khăn hoặc bị bí tiểu.
4. Tắc nghẽn đường tiết niệu
Sỏi có thể gây tắc nghẽn ở bất kỳ vị trí nào trong đường tiết niệu, thường gặp nhất ở khúc nối bể thận – niệu quản, khúc nối niệu quản – bàng quang, cổ bàng quang và niệu đạo tuyến tiền liệt. Tắc nghẽn có thể xảy ra ở 1 hoặc 2 bên thận. Khi tình trạng tắc nghẽn đường tiểu kéo dài, thận ứ nước nghiêm trọng có thể dẫn đến suy thận.
5. Nhiễm khuẩn đường tiết niệu
Tắc nghẽn đường tiết niệu do sỏi là yếu tố thuận lợi giúp vi khuẩn phát triển. Thận ứ nước hoặc nước tiểu tồn lưu nhiều ở bàng quang cũng làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn.
Khi nhiễm khuẩn tiết niệu, người bệnh thường tiểu nhiều lần, tiểu buốt, nước tiểu đục. Sốt và đau lưng là các triệu chứng thường gặp của viêm thận, đài bể thận. Nếu không được điều trị kịp thời, nhiễm khuẩn có thể gây biến chứng nguy hiểm như viêm mủ thận, áp xe thận, nhiễm khuẩn máu… ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh.
6. Suy thận
Tổn thương thận cấp: Tắc nghẽn đường tiết niệu và nhiễm khuẩn là nguyên nhân gây suy thận ở người mắc sỏi tiết niệu. Tổn thương thận cấp tính do tắc nghẽn cả 2 bên thận có thể rất nguy hiểm, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tính mạng người bệnh, phải được điều trị sớm, giải quyết tắc nghẽn giúp thận mau chóng hồi phục.

Các triệu chứng của suy thận mạn tính thường gặp:
- Buồn nôn, chán ăn: Ở người suy thận, các chất thải tích lũy trong máu tạo nên chứng urê huyết khiến hơi thở bệnh nhân có mùi, hương vị thức ăn thay đổi dẫn đến chán ăn.
- Thiếu máu: Thận khỏe mạnh sản xuất hormone erythropoietin, nhiệm vụ thông báo cho cơ thể tạo ra các tế bào hồng cầu mang oxy. Khi thận bị tổn thương kéo dài, lượng erythropoietin tiết ra ít hơn, tế bào hồng cầu vận chuyển ít oxy hơn cho cơ bắp và não bộ. Vì thế, người suy giảm chức năng thận sẽ thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, sức khỏe đi xuống, không thể làm việc, hoạt động ở cường độ cao.
- Ngứa ngáy trên cơ thể: Thận có chức năng loại bỏ các chất thải trong cơ thể. Khi chức năng thận suy giảm, chất thải không được loại bỏ hết khỏi cơ thể, tích tụ dưới da gây ngứa.
- Cơ thể bị phù: Thận có chức năng điều hòa nước và các chất điện giải. Khi thận tổn thương, nước tích tụ dưới da và xoang cơ thể, gây phù chân, mặt, báng bụng…
7. Sỏi tái phát
Nguy cơ tái phát của sỏi tiết niệu hay sỏi thận từ 21%-53% sau 3-5 năm. Những đối tượng có nguy cơ tái phát sỏi tiết niệu cao gồm: sỏi thận 2 bên; người trẻ từng mắc sỏi; sỏi san hô; sỏi nhiễm khuẩn; sỏi do rối loạn chuyển hóa hoặc di truyền…
Sỏi tiết niệu có chữa khỏi được không?
Hầu hết sỏi tiết niệu đều có thể được chữa trị hiệu quả, tỷ lệ sạch sỏi từ 80%-100%, tùy theo độ phức tạp của sỏi và phương pháp can thiệp. Mục tiêu của việc điều trị là bảo vệ chức năng thận, lấy sạch sỏi và giảm nguy cơ tái phát. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng sỏi tiết niệu có nguy hiểm không trước khi điều trị, nếu sỏi không biến chứng, không đe dọa thận, chỉ cần theo dõi định kỳ.
Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị tùy theo đặc điểm sỏi và tình trạng người bệnh. Bác sĩ thường ưu tiên các phương pháp điều trị ít tổn thương, mau hồi phục như tán sỏi ngoài cơ thể, nội soi tán sỏi ngược dòng, nội soi tán sỏi thận qua da… Tuy nhiên, với một số tình trạng sỏi lớn (như sỏi san hô), bác sĩ buộc phải mổ mở để lấy sỏi.
Sau phẫu thuật, sỏi có thể tái phát nên người bệnh cần lưu ý thay đổi lối sống và chế độ ăn phù hợp kết hợp theo dõi sức khỏe định kỳ.
Phương pháp chẩn đoán sỏi tiết niệu
Bác sĩ có thể dự đoán tình trạng sỏi tiết niệu có nguy hiểm không thông qua các triệu chứng lâm sàng của người bệnh, sỏi ở các vị trí khác nhau có thể gây triệu chứng khác nhau.
Sỏi nhỏ có thể đi ra ngoài cùng nước tiểu mà không gây bất cứ triệu chứng gì. Trong khi sỏi kích thước lớn có thể gây nhiều triệu chứng như buồn nôn, đau quặn thận, đau rát khi tiểu, tiểu nhiều lần…
Các bác sĩ có thể chỉ định xét nghiệm nước tiểu và máu để dự đoán tổn thương, đánh giá chức năng của thận và dự đoán loại sỏi tiết niệu.
Ngoài chẩn đoán thông qua triệu chứng và xét nghiệm, có nhiều phương pháp khác được bác sĩ dùng để phát hiện, đánh giá sỏi tiết niệu, đặc biệt các phương pháp chẩn đoán bằng hình ảnh như:
- Siêu âm: Phương pháp rất phổ biến để chẩn đoán sự hiện diện sỏi tiết niệu. Siêu âm có ưu điểm quan sát hình ảnh trong thời gian thực và không dùng bức xạ, có thể thực hiện trên nhiều đối tượng bệnh, kể cả người đang mang thai hay trẻ em.
- Chụp cắt lớp vi tính (CT): Chụp cắt lớp vi tính là phương pháp chẩn đoán sỏi thận có độ chính xác cao hàng đầu. Các bác sĩ có thể thực hiện chụp CT vùng bụng/xương chậu nếu nghi ngờ có sỏi tiết niệu. Chụp CT cho hình ảnh rõ ràng, chính xác vị trí sỏi cũng như đánh giá độ ứ nước của thận, giúp bác sĩ đánh giá tình trạng sỏi tiết niệu có nguy hiểm không?
- Chụp X-quang hệ niệu (KUB): Đây là một phương pháp có thể dùng để quan sát sỏi cản quang như canxi phốt phát hay oxalate, không hiệu quả ở các loại sỏi thấu quang như axit uric và cystine. Vì đặc điểm này, X-quang có thể dùng để theo dõi tình trạng phát triển của các loại sỏi canxi trong thời gian dài.

Điều trị sỏi tiết niệu
Tùy vào vị trí, kích thước, số lượng, tình trạng mà bác sĩ sẽ cân nhắc dùng một hay nhiều phương pháp điều trị nội khoa, ngoại khoa hoặc kết hợp để đạt kết quả tốt nhất.
Có nhiều loại thuốc được dùng để làm giảm các triệu chứng của sỏi tiết niệu như: Thuốc giảm đau, chống buồn nôn, kháng sinh (nếu có nhiễm khuẩn), thuốc giúp tống xuất sỏi… Bác sĩ thường dựa trên tình trạng sỏi tiết niệu có nguy hiểm không để chọn thuốc phù hợp, nếu tình trạng sỏi nhẹ, người bệnh có thể không cần dùng đến thuốc.
Ví dụ, người bệnh có sỏi niệu quản nhỏ đoạn gần bàng quang, không có dấu hiệu nhiễm trùng hay tắc nghẽn cấp tính nặng có thể được điều trị bằng liệu pháp tống xuất sỏi (expulsive therapy). Khoảng 86% sỏi có thể tự đào thải trong vòng 30-40 ngày theo kích thước của chúng.
- Sỏi nhỏ hơn 2mm có thời gian đào thải khoảng 8 ngày với tỷ lệ 87%.
- Sỏi 3mm có thời gian đào thải trung bình 12 ngày với tỷ lệ khoảng 76%.
- Sỏi 4-6mm có thời gian đào thải trung bình 22 ngày, tỷ lệ khoảng 60%.
- Khả năng sỏi 7mm có thể tự ra khỏi cơ thể khoảng 48%.
- Khả năng sỏi 8-9mm có thể tự ra khỏi cơ thể chỉ 25%.
Xem thêm: Sỏi đường tiết niệu uống thuốc gì cho mau khỏi?

Dựa trên vị trí, số lượng và kích thước sỏi giúp bác sĩ đánh giá tình trạng sỏi tiết niệu có nguy hiểm không. Đối với người bệnh có sỏi lớn, số lượng nhiều, thận ứ nước, có dấu hiệu tổn thương thận cấp, không thể dung nạp thuốc qua đường uống… cần được can thiệp bằng các biện pháp lấy sỏi chủ động như:
- Tán sỏi ngoài cơ thể: Đây là phương pháp dùng sóng xung kích làm vỡ sỏi thành những mảnh nhỏ. Mảnh vỡ sỏi có thể di chuyển ra ngoài qua đường tiểu. Sau khi sỏi được định vị bằng tia X hoặc siêu âm, bác sĩ dùng đầu tán sỏi áp sát vào vùng hông – lưng, các xung chấn động phát ra từ đầu tán làm vỡ sỏi thành các mảnh nhỏ. Đây là phương pháp ít xâm lấn, tỷ lệ sạch sỏi từ 60%-80%.
- Tán sỏi ngược dòng: Đây là phương pháp tán sỏi nội soi qua đường tiểu. Một ống soi nhỏ được đưa vào trong đường dẫn tiểu, tiếp cận và tán sỏi bằng laser hoặc sóng siêu âm. Đây là phương pháp điều trị rất hiệu quả với tỷ lệ sạch sỏi 80%-95% tùy theo vị trí của sỏi, vị trí sỏi càng thấp, tỷ lệ thành công sẽ càng cao.
- Nội soi tán sỏi qua da: Đây là phương pháp được chỉ định với sỏi vị trí cao (như bể thận, đài thận, đầu niệu quản nối với với thận) và có kích thước lớn. Một ống soi thận được đưa vào đường hầm nhỏ từ ngoài da vào trong thận với kích thước khoảng 5mm, trực tiếp tán sỏi và lấy các mảnh sỏi ra khỏi thận và niệu quản.
- Phẫu thuật nội soi: Khi sỏi niệu quản nằm ở vị trí cao, kích thước lớn, số lượng nhiều, người bệnh sẽ được chỉ định phẫu thuật. Đây là phương pháp điều trị rất hiệu quả, tuy nhiên, có thể gặp một số biến chứng hậu phẫu như chảy máu, nhiễm khuẩn và rò nước tiểu.

Đa số các trường hợp điều trị sỏi tiết niệu đều dùng các phương pháp điều trị ít xâm lấn, hồi phục nhanh với tỷ lệ thành công cao mà không cần mổ hở. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng sỏi tiết niệu có nguy hiểm không để can thiệp điều trị. Trong trường hợp sỏi nhỏ, ít, không gây ảnh hưởng đến sức khỏe, bác sĩ có thể chỉ định theo dõi mà không điều trị.
Phòng ngừa sỏi tiết niệu
Lời khuyên phổ biến nhất với người mắc sỏi tiết niệu là uống nhiều nước. Người bình thường nên uống khoảng 2 lít nước mỗi ngày để đảm bảo hoạt động trao đổi chất trong cơ thể. Đối với những người đã hoặc đang bị sỏi thận, cần tống xuất sỏi qua đường tiết niệu nên cung cấp dịch nhiều hơn, khoảng 3-4 lít nước mỗi ngày. Uống nhiều nước vừa giúp hòa tan các chất tạo sỏi, vừa giúp tống sỏi ra khỏi cơ thể nhanh hơn.
Lượng dịch nhập vào cơ thể là các loại chất lỏng bao gồm: nước, trà, cà phê, bia, nước trái cây… Tuy nhiên, một số loại nước không nên uống quá nhiều, ví dụ cà chua (nồng độ natri cao), bưởi (do oxalate cao). Ngoài ra, người bệnh cũng không nên uống quá nhiều nước trong thời gian dài, có thể gây ảnh hưởng xấu cho cơ thể.
Thực phẩm bổ sung citrate có thể giúp ngăn ngừa sự hình thành của sỏi. Citrate có khả năng ức chế sự kết tụ tinh thể bằng các phản ứng phức tạp với muối canxi trong nước tiểu. Khoảng 60% người bệnh mắc sỏi canxi do thiếu citrate niệu.
Chế độ ăn uống là một phần quan trọng trong phòng ngừa sỏi tiết niệu, nên có những thay đổi phù hợp tùy theo từng trường hợp cụ thể. Nhìn chung, người bị sỏi thận nên giảm ăn các loại thực phẩm sau:
- Thực phẩm có chứa nhiều muối, do có thể gây tăng tích tụ gốc oxalate, tiền đề để tạo ra sỏi trong thận.
- Các thực phẩm từ đạm động vật nếu có tăng axit uric máu.
- Thực phẩm giàu oxalate như rau muống, củ cải đường, khoai lang…
- Không uống nhiều các loại nước ngọt, rượu, bia.

Các thực phẩm sau sẽ giúp cơ thể cải thiện tình trạng sỏi cũng như tránh hình thành sỏi:
- Thực phẩm giàu vitamin D và canxi: Thiếu canxi đã được ghi nhận làm tăng nguy cơ hình thành sỏi tiết niệu, vì khi thiếu canxi, nồng độ oxalate sẽ tăng, nguy cơ tạo sỏi cũng gia tăng theo.
- Vitamin B6 giúp giảm khả năng hình thành oxalate. Loại vitamin này có nhiều trong các loại thực phẩm như đậu nành, đậu phộng, bông cải, cà rốt, cá…
- Các thực phẩm có vitamin C như cam, chanh sẽ giúp giảm khả năng hình thành oxalate.
- Vitamin A cũng được cho là có khả năng hỗ trợ điều hòa hệ thống bài tiết, giảm lắng đọng và kết tinh sỏi trong nước tiểu. Các thực phẩm có nhiều vitamin A thường gặp gồm cải xanh, cà rốt, bí đỏ…
Hi vọng sau khi đọc bài viết, bạn đọc đã có cái nhìn khách quan và chính xác hơn về bệnh sỏi tiết niệu có nguy hiểm không. Sỏi tiết niệu có thể chữa trị hiệu quả bằng các phương pháp ít xâm lấn giúp người bệnh nhanh chóng hồi phục. Nếu không điều trị, sỏi có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng sức khỏe, tính mạng người bệnh. Thế nên, việc chữa trị kịp thời và phòng tránh sỏi tiết niệu là hết sức cần thiết.