
Phẫu thuật co thắt tâm vị: Đối tượng, quy trình và biến chứng
Phẫu thuật co thắt tâm vị là gì?
Phẫu thuật co thắt tâm vị là phương pháp được thực hiện qua phẫu thuật nội soi hoặc mổ mở hoặc can thiệp qua nội soi tiêu hóa nhằm khắc phục tình trạng tắc nghẽn đường thoát thực quản, đồng thời ngăn chặn tình trạng trào ngược dạ dày thực quản và các biến chứng liên quan.
Co thắt tâm vị là một dạng rối loạn vận động thực quản gây ra triệu chứng khó nuốt, đau ngực, trào ngược và sụt cân. Mặc dù phương pháp điều trị nong bằng bóng hơi cũng mang lại một số hiệu quả đáng kể, tuy nhiên điều trị bằng phẫu thuật vẫn được đánh giá cao hơn và được xem là sự lựa chọn tối ưu trong nhiều trường hợp.

Quy trình một số phẫu thuật điều trị co thắt tâm vị
Dưới đây là một số phương pháp phẫu thuật điều trị co thắt tâm vị được sử dụng phổ biến: (1)
1. Phẫu thuật Heller
Phẫu thuật Heller là một phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu được thực hiện bằng việc cắt mở lớp cơ vòng thực quản dưới (được xem như van cơ của thực quản cho phép thức ăn di chuyển vào dạ dày). Phương pháp vô cảm được thực hiện khi can thiệp phẫu thuật là gây mê toàn thân. Phẫu thuật Heller là lựa chọn tối ưu cho đa số bệnh nhân co thắt tâm vị, kể cả những trường hợp đã từng can thiệp phẫu thuật vùng bụng trên.
Tiến trình phẫu thuật: Trong quá trình thực hiện phẫu thuật, phẫu thuật viên sẽ rạch 4 – 5 vết mổ nhỏ ở phần trên của bụng để đặt các cổng thao tác, qua đó các dụng cụ thao tác và một ống nội soi (ống dài, linh hoạt, có gắn camera ở phần đầu) được đưa vào bụng. Dưới sự hướng dẫn của ống nội soi, phẫu thuật viên sẽ phẫu tích tách dạ dày và phần dưới thực quản ra khỏi các mô xung quanh, sau đó tiến hành cắt lớp cơ vòng dưới dọc từ phần dưới thực quản đến phần tâm vị của dạ dày.
Sau phẫu thuật: Sau khi thực hiện phẫu thuật Heller, hầu hết người bệnh đều diễn tiến tốt và có thể xuất viện trong vòng 1 – 2 ngày. Thông thường, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện chụp X-quang thực quản có uống thuốc cản quang để đánh giá sự lưu thông thực quản dạ dày trước khi cho người bệnh xuất viện.
Trong vòng một tuần sau phẫu thuật, người bệnh cần tuân thủ chế độ ăn thức ăn lỏng, sau đó có thể dần kết hợp các loại thực phẩm mềm, dễ tiêu hóa vào chế độ ăn. Đối với phẫu thuật viên có kinh nghiệm, phương pháp phẫu thuật này rất hiếm khi gây ra biến chứng, tuy nhiên một số ít trường hợp có thể bị thủng thực quản dưới, những trường hợp này cần phải tiếp tục nằm viện theo dõi để xử trí kịp thời.

2. Phẫu thuật cắt cơ vòng dưới thực quản bằng nội soi qua đường miệng hay ngả miệng (Peroral Endoscopic Myotomy – POEM)
Phẫu thuật cắt cơ vòng dưới thực quản bằng nội soi qua đường miệng hay ngả miệng (POEM) là phương pháp can thiệp mới và ít xâm lấn qua nội soi tiêu hóa. Phẫu thuật này mang lại hiệu quả tối ưu trong việc nới lỏng cơ vòng dưới thực quản, do đó làm cải thiện khả năng nuốt sau can thiệp. (2)
Thực hiện phẫu thuật: Trong quá trình phẫu thuật POEM, bệnh nhân được vô cảm bằng gây mê nội khí quản. Phẫu thuật viên tiến hành xác định cơ thắt thực quản dưới (LES), sau đó tiêm phồng lớp dưới niêm mạc thực quản phía trên đường Z khoảng 10 cm. Sau khi đã tiêm phồng, qua nội soi, phẫu thuật viên sử dụng dao điện mở niêm mạc thực quản chỗ tiêm và tạo một đường hầm dài giữa lớp dưới niêm mạc và lớp cơ, qua khỏi cơ vòng thực quản dưới đến tâm vị dạ dày, để lộ toàn bộ lớp cơ vòng.
Quá trình mở cơ bắt đầu từ một vị trí cách điểm mở niêm mạc thực quản ban đầu khoảng 2 cm (về phía dưới), thông thường cắt cơ vòng ở thực quản dưới độ dài từ 6 – 8 cm kéo xuống phần tâm vị dạ dày khoảng 2 – 3 cm.
Những trường hợp kém đáp ứng sau phương pháp phẫu thuật này có thể được điều trị kết hợp bằng nong bóng qua nội soi. Nếu thủ thuật này vẫn không thành công, phẫu thuật sẽ tiến hành xác định nguyên nhân bằng phương tiện chẩn đoán hình ảnh, từ đó thảo luận về phương án điều trị tiếp theo. Trong đó, phẫu thuật cắt thực quản là lựa chọn điều trị cuối cùng.
3. Phẫu thuật cắt thực quản
Phẫu thuật cắt thực quản là phương pháp cắt bỏ phần dưới của thực quản, sau đó tái lập lưu thông với thực quản bằng một phần dạ dày hoặc ruột non, đại tràng. Phương án điều trị này hiếm khi được chỉ định, chỉ được khuyến nghị thực hiện cho những người bệnh mắc chứng co thắt tâm vị giai đoạn cuối, những trường hợp này gần như không thể ăn uống hoặc không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác.
Thực hiện phẫu thuật: Cắt bỏ thực quản là một phẫu thuật tương đối phức tạp, có thể được thực hiện thông qua phẫu thuật mổ mở (vết mổ ở cả bụng và ngực) hoặc phẫu thuật nội soi (chủ yếu thông qua vết mổ nhỏ ở bụng).
Sau khi tái lập lại lưu thông đường tiêu hóa, bác sĩ phẫu thuật thường sẽ đặt một ống thông đến hỗng tràng (đoạn đầu ruột non), qua đó có thể cung cấp dinh dưỡng trong thời gian hậu phẫu. Khi bệnh nhân có thể bắt đầu ăn uống trở lại, bác sĩ sẽ rút ống thông. Đối với các trường hợp đặc biệt như những bệnh nhân lớn tuổi, dinh dưỡng kém có thể cần sử dụng ống thông hỗng tràng kéo dài khoảng 6 – 8 tuần.
Sau phẫu thuật: Đối với phẫu thuật mổ mở cắt thực quản, bệnh nhân phải nằm viện kéo dài khoảng 1 – 2 tuần. Trong khi đó, với phẫu thuật nội soi bệnh nhân thường diễn tiến tốt sau mổ, thời gian nằm viện sau phẫu thuật được rút ngắn thường 5 – 7 ngày.
Để tránh các biến chứng liên quan sau phẫu thuật, bác sĩ sẽ hỗ trợ người bệnh thực hiện các bài tập thở, tập vận động, uống thuốc kháng đông ngăn ngừa huyết khối khi có chỉ định. Sau khi xuất viện, bệnh nhân cần ăn các thức ăn mềm và duy trì tư thế đứng thẳng từ 1 – 3 giờ sau khi ăn trong vòng vài tuần đầu. Quá trình phục hồi hoàn toàn có thể mất đến 6 tháng.
Các yếu tố nguy cơ bị co thắt tâm vị
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh co thắt tâm vị bao gồm :
- Tuổi tác: Chứng co thắt tâm vị có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn ở những người trong giai đoạn từ 25 – 60 tuổi.
- Một số đối tượng nguy cơ: người bị rối loạn dị ứng, suy tuyến thượng thận hoặc mắc hội chứng Allgrove.
Đối tượng nào cần phẫu thuật co thắt tâm vị?
Phẫu thuật co thắt tâm vị được chỉ định và chống chỉ định với các trường hợp sau đây:
1. Chỉ định
Phẫu thuật co thắt tâm vị được chỉ định cho các trường hợp sau:
- Khả thi đối với tất cả các phân nhóm và giai đoạn co thắt tâm vị
- Người bệnh không có chống chỉ định với gây mê toàn thân
- Khả thi với các trường hợp co thắt tâm vị đã điều trị phẫu thuật thất bại trước đó
2. Chống chỉ định
Phẫu thuật co thắt tâm vị chống chỉ định cho các trường hợp sau:
- Người bệnh có thể trạng quá yếu không chịu được cuộc phẫu thuật
- Người già có nhiều bệnh nền
- Bệnh nhân bị ung thư thực quản
- Người bệnh mắc bệnh cổ trướng
- Nhiễm khuẩn thành bụng, ổ bụng
- Người mắc các bệnh lý rối loạn đông máu

Phẫu thuật co thắt tâm vị có biến chứng không?
Sau phẫu thuật điều trị co thắt tâm vị, khoảng 6,3% trường hợp có biến chứng, nhưng chỉ có 0,7% trong số đó có biểu hiện trên lâm sàng, 7% có dấu hiệu thủng thực quản, phổ biến ở những bệnh nhân đã từng điều trị bằng nội soi làm giãn cơ vòng thực quản hoặc sử dụng botulinum trước đó. Tỷ lệ tử vong do phẫu thuật Heller là rất thấp trong hầu hết các báo cáo.
Khoảng 90% bệnh nhân cải thiện triệu chứng rõ rệt sau phẫu thuật Heller, phần lớn không bị tái phát kể cả khi theo dõi trong thời gian dài. Tuy nhiên, một số ít trường hợp vẫn còn các triệu chứng dai dẳng hoặc tái phát. Những trường hợp này, bác sĩ sẽ thăm khám, đánh giá kỹ lưỡng để đưa ra biện pháp can thiệp kịp thời.
Ở những bệnh nhân mắc chứng co thắt tâm vị giai đoạn cuối, phẫu thuật cắt thực quản là phương pháp điều trị được khuyến nghị. Tuy nhiên, thời gian nằm viện thường kéo dài, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều biến chứng như xì rò miệng nối, chấn thương dây thần kinh thanh quản, chảy máu, viêm phổi, tràn dịch dưỡng chấp và tử vong.
Để đặt lịch thăm khám, điều trị bệnh tại Hệ thống PlinkCare, Quý khách vui lòng liên hệ:
Trên đây là bài viết tổng hợp thông tin liên quan đến phẫu thuật co thắt tâm vị, các phương pháp chính, quy trình thực hiện và biến chứng có thể gặp phải. Hy vọng qua những chia sẻ nêu trên, người bệnh đã có thêm nhiều cập nhật hữu ích liên quan đến kiến thức chăm sóc sức khỏe.