
4 cách phân loại suy dinh dưỡng với các thể, cấp theo WHO
Suy dinh dưỡng là gì?
Suy dinh dưỡng là một dạng rối loạn dinh dưỡng khiến cơ thể phát triển hay hoạt động kém do thiếu hụt dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng có thể xảy ra do thiếu đạm, vitamin, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác cần thiết để duy trì các mô và chức năng cơ quan khỏe mạnh. Trẻ em, người cao tuổi, người mắc bệnh nền, người có nhu cầu năng lượng cao (sau phẫu thuật, đang mang thai,…) là những nhóm đối tượng có nguy cơ bị suy dinh dưỡng cao hơn.
Các triệu chứng suy dinh dưỡng thường gặp bao gồm gầy còm, nhẹ cân, thấp còi (ở trẻ em), da nhợt nhạt, dễ bị bầm tím, thay đổi sắc tố da, rụng tóc, đau khớp, chảy máu nướu răng,…
Suy dinh dưỡng nghiêm trọng làm cơ thể người bệnh mất năng lượng để tự duy trì. Để bù lại, cơ thể bắt đầu phá vỡ các mô của chính mình và ngừng các chức năng hoạt động. Quá trình này bắt đầu từ việc tiêu thụ lượng mỡ dự trữ trong cơ thể và sau đó tiến tới cơ, da, tóc và móng. Những người bị thiếu dinh dưỡng thường có biểu hiện hốc hác rõ rệt.
Một trong những hệ thống đầu tiên bắt đầu ngừng hoạt động là hệ thống miễn dịch. Điều này khiến người bệnh rất dễ mắc bệnh, tăng nguy cơ nhiễm trùng và hồi phục sau bệnh chậm hơn, vết thương mất nhiều thời gian hơn để lành. Suy dinh dưỡng cũng khiến cho hoạt động của tim chậm lại, dẫn đến nhịp tim thấp, huyết áp thấp, nhiệt độ cơ thể thấp, dễ cảm thấy lạnh,…

Để điều trị suy dinh dưỡng, trước tiên bác sĩ cần thăm khám, phân loại suy dinh dưỡng xem người bệnh đang ở dạng suy dinh dưỡng nào, nguyên nhân là gì. Từ đó mới có thể đưa ra phương pháp điều trị phù hợp nhất.
Phân loại suy dinh dưỡng dựa trên các chỉ số nào?
Có nhiều cách khác nhau để đánh giá xem một người có bị suy dinh dưỡng hay không và phân loại mức độ suy dinh dưỡng.
Trong đó, chỉ số BMI (Body mass Index) là chỉ số thường được các bác sĩ, chuyên gia dinh dưỡng lựa chọn. Chỉ số này được tính dựa trên cân nặng và chiều cao của một người theo công thức: Cân nặng (tính bằng kilogam) chia cho bình phương chiều cao tính bằng mét (kg/m2).
Đối với trẻ em, để kết luận và phân loại suy dinh dưỡng chính xác nhất, bác sĩ dựa trên chỉ số nhân trắc Z-score tính toán chiều cao và cân nặng (1). Bên cạnh đó còn có thể đánh giá thông qua chỉ số khối lượng cơ và mỡ dưới da do sự suy giảm lượng mỡ dưới da và khối lượng cơ tổng thể của cơ thể là một dấu hiệu quan trọng của tình trạng suy dinh dưỡng. (2)
Ngoài ra, còn có 1 số chỉ số khác cũng được bác sĩ cân nhắc để đánh giá, phân loại suy dinh dưỡng, chẳng hạn như chỉ số chu vi giữa cánh tay (MUAC) <12,5 cm, chỉ số điểm Z cân nặng theo chiều cao (WHZ) <-2,… (3)
Việc lựa chọn chỉ số nào để phân loại suy dinh dưỡng sẽ được bác sĩ cân nhắc cẩn thận. Một số trường hợp, bác sĩ sẽ kết hợp trên nhiều chỉ số để đưa ra chẩn đoán chính xác nhất.

4 cách phân loại suy dinh dưỡng
1. Phân loại suy dinh dưỡng theo cấp độ
Cách phân loại suy dinh dưỡng theo cấp độ chia người trưởng thành (hay còn gọi là thiếu năng lượng trường diễn) trước đây thành 3 nhóm chính là cấp độ 1, độ 2 và độ 3:
1.1. Suy dinh dưỡng độ 1
Suy dinh dưỡng độ 1 là mức độ nhẹ nhất, chưa gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng. Ở trường hợp suy dinh dưỡng độ 1, thường không có triệu chứng hay biểu hiện bất thường. Người bệnh có thể sụt cân nhẹ, mệt mỏi uể oải, thiếu năng lượng,…
Với trường hợp bị suy dinh dưỡng độ 1, thông thường bác sĩ sẽ tư vấn điều chỉnh nhẹ trên chế độ ăn uống hàng ngày, không dùng thêm các chất bổ sung hay thuốc.
1.2. Suy dinh dưỡng độ 2
Suy dinh dưỡng độ 2 có nghiêm trọng cao hơn, cân nặng chỉ bằng khoảng 60-75%. Biểu hiện ở người suy dinh dưỡng độ 2 thường rõ rệt hơn, không có lớp mỡ dưới da, vóc dáng gầy gò, da xanh xao nhợt nhạt,….
Để điều trị suy dinh dưỡng độ 2, cần thay đổi chế độ dinh dưỡng kết hợp với dùng thêm các vitamin, khoáng chất bổ sung.
1.3. Suy dinh dưỡng độ 3
Trong các loại suy dinh dưỡng thì suy dinh dưỡng độ 3 là mức độ nghiêm trọng nhất, có thể gây ảnh hưởng đến toàn bộ các cơ quan trong cơ thể. Việc điều trị suy dinh dưỡng cấp độ 3 cần dựa trên phác đồ của bác sĩ, kết hợp giữa thay đổi chế độ dinh dưỡng, bổ sung dưỡng chất, sử dụng thuốc (nếu cần),…

2. Các thể suy dinh dưỡng theo phương pháp phân loại ở trẻ em
Một cách khác để phân loại suy dinh dưỡng đó chính là chia theo các thể suy dinh dưỡng. Có 3 thể suy dinh dưỡng chính là suy dinh dưỡng thể teo đét (Marasmus), suy dinh dưỡng thể phù (Kwashiorkor) và suy dinh dưỡng thể phối hợp (Marasmus – Kwashiorkor). Cụ thể:
2.1. Suy dinh dưỡng thể teo đét (Marasmus)
Marasmus là một thể suy dinh dưỡng nghiêm trọng do thiếu protein-năng lượng. Có thể nói, marasmus kết quả của việc thiếu hụt tất cả các chất dinh dưỡng đa lượng như carbohydrate, chất béo và protein dẫn đến thiếu calo tổng thể.
Người bị suy dinh dưỡng thể teo đét có biểu hiện suy kiệt rõ rệt, thiếu cân trầm trọng và hốc hác, xanh xao, còi cọc.
Trẻ em bị suy dinh dưỡng thể teo đét mãn tính có thể chậm phát triển, hệ thống miễn dịch suy giảm, chức năng hệ tiêu hóa hoạt động kém và khiến cơ thể không hấp thụ dưỡng chất trong thức ăn ngay cả khi ăn uống đầy đủ.
2.2. Suy dinh dưỡng thể phù (Kwashiorkor)
Kwashiorkor hay còn được gọi là suy dinh dưỡng thể phù, là tình trạng suy dinh dưỡng do thiếu protein nghiêm trọng và khiến cơ thể, đặc biệt là tứ chi (2 tay, 2 chân) sưng phù. Bệnh thường ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Trong đó, trẻ ở độ tuổi cai sữa cho đến 5 tuổi là nhóm đối tượng có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thể phù cao nhất. (4)
Suy dinh dưỡng thể phù là một dạng suy dinh dưỡng nguy hiểm bởi trẻ có thể trông qua hình ảnh trẻ vẫn mập mạp, đầy đặn bình thường nhưng thực chất là phù tích nước.

2.3. Suy dinh dưỡng thể phối hợp (Marasmus – Kwashiorkor)
Để phân loại suy dinh dưỡng theo từng thể thì Marasmus – Kwashiorkor chính là dạng suy dinh dưỡng thể phối hợp do thiếu protein-năng lượng. Suy dinh dưỡng thể kết hợp các đặc điểm và triệu chứng của cả hai dạng suy dinh dưỡng thể teo đét và thể phù.
Một người mắc chứng suy dinh dưỡng thể phối hợp có thể cực kỳ gầy, xanh xao nhưng vẫn phù ở một số vùng khác như tay, chân.
3. Cách phân loại suy dinh dưỡng theo Waterlow
Một cách phân loại suy dinh dưỡng khác được áp dụng trước đây chính là phân loại theo Waterlow. Cách phân loại này thường được dùng để đánh giá suy dinh dưỡng cấp tính.
Cách phân loại Waterlow thực hiện phân loại suy dinh dưỡng dựa trên tỷ lệ phần trăm trọng lượng cơ thể lý tưởng, được tính bằng cách chia “cân nặng thực tế” cho “cân nặng theo chiều cao lý tưởng” và nhân với 100%, sau đó đối chiếu với biểu đồ tăng trưởng lâm sàng. Tỷ lệ trọng lượng cơ thể lý tưởng được phân loại theo phương pháp Waterlow >90% là bình thường, 80–90% là suy dinh dưỡng nhẹ, 70–79% là suy dinh dưỡng vừa phải và <70% là suy dinh dưỡng nghiêm trọng. (5)
4. Cách phân suy dinh dưỡng mới nhất theo WHO
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), phân loại suy dinh dưỡng có thể chia làm 3 nhóm là suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi và thể gầy còm. Cách phân loại này thường được áp dụng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em: (6)
4.1. Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là tình trạng trẻ có cân nặng thấp hơn mức trung bình so với độ tuổi theo biểu đồ tăng trưởng chuẩn về cân nặng và chiều cao. Suy dinh dưỡng nhẹ cân có thể làm cho trẻ thấp còi hoặc gầy còm hoặc cả hai.
4.2. Suy dinh dưỡng thể thấp còi
Suy dinh dưỡng thể thấp còi được xác định khi trẻ có chiều cao thấp hơn so với mức trung bình theo độ tuổi được xác định dựa trên biểu đồ tăng trưởng chuẩn về cân nặng và chiều cao. Suy dinh dưỡng thể thấp còi thường xuất phát từ nguyên nhân do trẻ bị bệnh thường xuyên, không được chăm sóc đúng cách, mẹ có sức khỏe kém trong suốt thai kỳ,…
4.3. Suy dinh dưỡng thể gầy còm
Suy dinh dưỡng thể gầy còm là tình trạng suy dinh dưỡng mà cân nặng theo chiều cao thấp. Suy dinh dưỡng thể gầy còm có thể được điều trị nhưng nếu chủ quan, để bệnh kéo dài thì vẫn có nguy cơ tử vong cao.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng người lớn dựa trên chỉ số khối cơ thể BMI
Chỉ số khối cơ thể (BMI) là cân nặng của một người tính bằng kilogam chia cho bình phương chiều cao tính bằng mét. BMI là một phương pháp sàng lọc dễ dàng để phân loại suy dinh dưỡng hay thừa cân, béo phì.
BMI không đo lượng mỡ trong cơ thể một cách trực tiếp, nhưng BMI có mối tương quan vừa phải với các phép đo trực tiếp hơn về lượng mỡ trong cơ thể. Các nghiên cứu cho thấy rằng, người suy dinh dưỡng, có chỉ số BMI thấp cũng thường có lượng mỡ trong cơ thể thấp và ngược lại, những người có chỉ số BMI cao cũng thường có lượng mỡ trong cơ thể cao.
Với người lớn, chỉ số BMI dưới 18,5 được cho là thiếu cân, suy dinh dưỡng trong khi chỉ số BMI 18,5 – 24,9 là mức cân nặng tương đối. Người có chỉ số BMI từ 25,0 – 29,9 là thừa cân trong khi chỉ số BMI từ 30.0 trở lên được xếp vào nhóm béo phì.
Phương pháp phân loại suy dinh dưỡng nào tốt nhất?
Việc lựa chọn phương pháp phân loại suy dinh dưỡng sẽ còn tùy vào từng bác sĩ và từng trường hợp cụ thể. Vì thế, không có đáp án cụ thể về phương pháp phân loại suy dinh dưỡng nào tốt nhất mà bác sĩ cần thông quan thăm khám lâm sàng, đánh giá người bệnh để lựa chọn phương pháp phân loại phù hợp.
Tùy theo nguyên nhân suy dinh dưỡng, thể trạng người bệnh, các triệu chứng mà người bệnh đang gặp phải,… để có thể đánh giá chính xác tình trạng dinh dưỡng của người bệnh và đưa ra phương pháp điều trị thích hợp nhất.
Nếu nghi ngờ suy dinh dưỡng, bạn có thể thăm khám tại khoa Dinh dưỡng Tiết chế, Hệ thống PlinkCare. Khoa quy tụ đội ngũ bác sĩ, chuyên gia dinh dưỡng được đào tạo chuyên sâu về suy dinh dưỡng, dinh dưỡng bệnh lý, dinh dưỡng cho trẻ em,… Ngoài ra, Bệnh viện Tâm Anh còn sở hữu hệ thống trang thiết bị, máy móc xét nghiệm chuyên sâu để đánh giá chính xác tình trạng dinh dưỡng của người bệnh.

Nhìn chung, có nhiều cách phân loại suy dinh dưỡng khác nhau, từ phân loại theo cấp độ đến phân loại theo các thể suy dinh dưỡng. Bác sĩ phân loại suy dinh dưỡng sẽ dựa trên các thông tin hay chỉ số cơ thể liên quan của người bệnh để đánh giá chính xác tình trạng dinh dưỡng cho từng trường hợp cụ thể, từ đó có cách điều trị hiệu quả, an toàn.