
Lao hạch và lao phổi: Phân biệt, so sánh, chẩn đoán như thế nào?
Phân biệt bệnh lao hạch và lao phổi
Lao hạch thường là biến chứng của lao phổi, khi vi khuẩn lao xâm nhập vào các hạch bạch huyết gây viêm.
1. Bệnh lao hạch
Lao hạch là tình trạng sưng hạch bạch huyết ở cổ do vi khuẩn lao. Người bệnh thường có biểu hiện 1 hoặc nhiều hạch sưng to, tập hợp thành 1 chuỗi, thường không đau hoặc chỉ hơi đau, có thể đổi màu hoặc trùng màu với da. Lao hạch khá hiếm, chỉ có khoảng 5% các trường hợp lao có triệu chứng được chẩn đoán là lao hạch. (1)
2. Bệnh lao phổi
Bệnh lao phổi (Tuberculosis hay TB) là bệnh truyền nhiễm có thể gây nhiễm trùng ở phổi hoặc các mô khác do trực khuẩn lao gây ra. Bệnh thường ảnh hưởng đến phổi, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác như cột sống, não hoặc thận. Không phải tất cả những người bị nhiễm lao đều bị bệnh lao. (2)
Nếu người bệnh bị nhiễm vi khuẩn nhưng không có triệu chứng gọi là bệnh lao phổi không hoạt động hoặc nhiễm lao tiềm ẩn (LTBI). Nếu người bệnh phát triển các triệu chứng và có khả năng lây nhiễm, người bệnh bị lao hoạt động hoặc bệnh lao (TB). Ba giai đoạn của bệnh lao là:
- Nhiễm trùng nguyên phát.
- Nhiễm lao tiềm ẩn.
- Bệnh lao hoạt động.
Nguyên nhân dẫn đến bệnh lao hạch và lao phổi
Lao hạch và lao phổi là 2 dạng bệnh lao khác nhau do cùng 1 chủng vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra.
1. Nguyên nhân dẫn đến lao hạch
Mycobacterium tuberculosis là vi khuẩn gây bệnh lao, gây ra hầu hết các trường hợp bệnh lao hạch ở người lớn. Khi hít phải vi khuẩn vào phổi, vi khuẩn có khả năng di chuyển đến các hạch bạch huyết ở cổ gây ra lao hạch. Người nhiễm HIV, người bị suy dinh dưỡng hoặc các bệnh gây suy giảm hệ miễn dịch, thuốc ức chế miễn dịch, 1 số bệnh tự miễn và 1 số bệnh ung thư làm tăng nguy cơ mắc lao hạch. (3)
2. Nguyên nhân dẫn đến lao phổi
Bệnh lao phổi cũng do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra. Vi khuẩn lây lan qua không khí và thường lây nhiễm phổi, nhưng cũng có thể lây nhiễm các bộ phận khác của cơ thể. Tuy bệnh lao có tính lây nhiễm, nhưng lại không dễ lây lan.
Phân biệt triệu chứng và đánh giá mức độ nguy hiểm của hai bệnh
Triệu chứng điển hình nhất do lao hạch gây ra chính là hạch bạch huyết ở cổ sưng to. 1 số người bị lao hạch cũng có thêm các triệu chứng nhiễm trùng do vi khuẩn, bao gồm: (4)
- Sốt.
- Đổ mồ hôi trộm vào ban đêm.
- Giảm cân không rõ nguyên nhân.
- Mệt mỏi.
Người nhiễm vi khuẩn lao nhưng không mắc bệnh lao sẽ không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên vẫn có thể cho ra phản ứng dương tính với bài test da hoặc xét nghiệm máu. Người mắc bệnh lao hoạt động có thể biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
- Ho dữ dội (kéo dài hơn hai tuần).
- Đau ngực.
- Ho ra máu hoặc đờm.
- Mệt mỏi hoặc mất sức.
- Chán ăn.
- Giảm cân.
- Có cảm giác bị lạnh.
- Sốt.
- Đổ mồ hôi trộm vào ban đêm.

Biến chứng do lao hạch và lao phổi
Tuy do cùng 1 chủng vi khuẩn gây ra nhưng biến chứng của bệnh lao hạch và lao phổi khá khác nhau.
1. Biến chứng lao hạch
Đôi khi tình trạng sưng do lao hạch có thể vỡ ra và gây rò rỉ dịch, gây ra xoang hoặc vết thương hở trên da. Nếu không được điều trị đúng cách có thể để lại sẹo.
2. Biến chứng lao phổi
Nếu bệnh nhân lao phổi không tuân thủ điều trị hoặc dùng thuốc sai phác đồ, bệnh lao phổi sẽ gây nguy hiểm tới tính mạng bởi những biến chứng sau:
- Tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi: khoang màng phổi bình thường không có khí và không có dịch, chỉ có 1 chút dịch nhờn có tác dụng bôi trơn, giúp phổi nở ra khi hô hấp, hít vào thở ra dễ dàng. Tràn dịch màng phổi là tình trạng màng phổi bị đầy ứ dịch trong khoang màng phổi. Trong khi đó, tràn khí là hiện tượng khí xâm nhập vào trong khoang màng phổi. Dịch và khí từ phổi đi ra và vào trong khoang này. Ở người mắc lao phổi, vi khuẩn lao khiến cho dịch và khí tràn ra ồ ạt. Khi khí và dịch tràn ra quá nhiều sẽ ép thể tích phổi lại còn rất nhỏ, không thể cung cấp đủ khí khiến người bệnh ngạt thở và tử vong. Vì vậy, cần xử lý ngay khi tràn dịch và khí, tránh ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh.
- Xơ phổi: vi khuẩn lao phá hủy phổi không ngừng có thể gây ra tình trạng xơ hóa phổi, làm hỏng một thùy nhỏ ở phổi nhưng cũng có thể làm hỏng hoàn toàn một bên phổi. Khi đó phổi chỉ còn lại một lá xơ, thủng lỗ chỗ và không có chức năng trao đổi khí, khiến người bệnh bị suy hô hấp và dẫn đến tử vong.
- Ho ra máu: là tình trạng người bệnh ho hoặc khạc ra máu. Đây là dấu hiệu vi khuẩn lao đã thâm nhập vào phổi, phá hủy cấu trúc và làm thủng mạch máu, bắt đầu từ các mạch máu nhỏ ở phế nang, rồi đến các mạch máu lớn. Đặc điểm của ho ra máu do lao chính là máu không tự cầm và chảy máu trên diện rộng. Người bệnh sẽ chảy máu rất nhiều và đến khi quá nhiều mới khạc ra được.
Chẩn đoán bệnh lao hạch và lao phổi như thế nào?
Để chẩn đoán chính xác lao phổi và lao hạch, bác sĩ sẽ thăm khám lâm sàng, kết hợp cùng kết quả xét nghiệm để đưa ra chẩn đoán phù hợp nhất.
1. Chẩn đoán lao hạch
Sau khi thăm khám lâm sàng, bác sĩ sẽ đề nghị người bệnh thực hiện các xét nghiệm bổ sung trong trường hợp cần thiết:
- Xét nghiệm máu: bác sĩ có thể tìm vi khuẩn lao và các bệnh nhiễm trùng khác bằng mẫu máu.
- Sinh thiết: bác sĩ sẽ cắt bỏ hạch bạch huyết hoặc sử dụng kim để lấy mẫu mô để thử nuôi cấy (nuôi cấy) và tìm (nhuộm) vi khuẩn lao.
- Xét nghiệm lao: xét nghiệm da (PPD) hoặc xét nghiệm máu có thể cho biết bạn có bị lao hay không.
- Xét nghiệm trực khuẩn kháng axit: bác sĩ có thể sử dụng mẫu mô hoặc mẫu chất nhầy khạc ra từ phổi của bạn để tìm vi khuẩn lao.
- Chẩn đoán hình ảnh: bác sĩ có thể chụp X-quang ngực, chụp CT hoặc siêu âm để chụp ảnh phổi hoặc cổ.

2. Chẩn đoán lao phổi
Có 2 loại xét nghiệm sàng lọc bệnh lao: Xét nghiệm tiêm dưới da xác định bệnh lao (TST) và xét nghiệm máu, được gọi là xét nghiệm giải phóng interferon gamma (IGRA).
Đối với TST, bác sĩ sẽ tiêm 1 lượng nhỏ chất gọi là dẫn xuất protein tinh khiết dưới da cẳng tay. Sau 2 – 3 ngày người bệnh quay lại bệnh viện để bác sĩ kiểm tra vị trí tiêm và cho ra kết quả. Đối với IGRA, bác sĩ sẽ lấy máu và gửi mẫu đến phòng xét nghiệm. Các xét nghiệm khác để xác định xem tình trạng nhiễm trùng có đang hoạt động hay phổi có bị nhiễm trùng hay không bao gồm:
- Xét nghiệm đờm và dịch phổi.
- Chụp X-quang lồng ngực.
- Chụp cắt lớp vi tính (CT).
Phương pháp điều trị của hai bệnh này như thế nào?
Vì lao hạch và lao phổi do cùng 1 chủng vi-rút gây ra nên sẽ sử dụng các loại thuốc giống nhau:
1. Điều trị bệnh lao hạch
Bác sĩ sẽ kê đơn thuốc kháng sinh để điều trị lao hạch. Người bệnh cần sử dụng thuốc từ vài tháng đến 1 năm. Các loại thuốc kháng sinh có thể điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn lao bao gồm:
- Ethambutol.
- Isoniazid (INH).
- Pyrazinamide.
- Rifampin.
- Clarithromycin.
Những trường hợp nghiêm trọng sẽ được bác sĩ tiến hành phẫu thuật để cắt bỏ hạch nhiễm lao.
2. Điều trị bệnh lao phổi
Bác sĩ thường kê đơn thuốc điều trị lao phổi gồm:
- Isoniazid (Hyzyd).
- Rifampin (Rifadin).
- Ethambutol (Myambutol).
- Pyrazinamide (Zinamide).
- Rifapentine (Priftin).
Tuân thủ đúng phác đồ điều trị của bác sĩ. Tuyệt đối không tự ý ngưng thuốc hoặc tăng giảm liều lượng thuốc khi chưa có chỉ định từ bác sĩ. Các dạng bệnh lao đã trở nên kháng thuốc sẽ cần kết hợp nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị bệnh.

Phòng ngừa bệnh lao hạch và lao phổi như thế nào?
Tuân thủ các hướng dẫn phòng ngừa sau sẽ giúp giảm nguy cơ mắc lao hạch và lao phổi:
- Rửa tay kỹ lưỡng và thường xuyên.
- Ho vào khuỷu tay hoặc che miệng khi ho.
- Tránh tiếp xúc gần với người khác.
- Đảm bảo uống đúng và đủ thuốc.
- Không tự ý quay lại làm việc hoặc đi học cho đến khi được bác sĩ cho phép.
- Tiêm vắc-xin phòng bệnh lao Bacillus Calmette-Guerin (BCG). Vắc-xin này chủ yếu được tiêm cho trẻ em ở các quốc gia có tỷ lệ mắc bệnh lao cao để phòng ngừa bệnh viêm màng não và 1 dạng bệnh lao nghiêm trọng gọi là bệnh lao kê.
Tuy lao hạch và lao phổi đều do 1 loại vi khuẩn gây ra nhưng lại có nhiều điểm khác nhau rõ rệt. Lao phổi lây lan trực tiếp qua đường hô hấp, trong khi đó lao hạch không có khả năng lây nhiễm cho người xung quanh. Khi gặp bất kỳ triệu chứng bất thường nào trên cơ thể, người bệnh cần đến khám bác sĩ ngay để ngăn ngừa biến chứng cho bản thân và hạn chế lây bệnh trong cộng đồng.