Image

7 biến chứng bơm Surfactant khi điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh

Kỹ thuật bơm Surfactant là gì?

Surfactant – một phức hợp của phospholipid và lipoprotein, được sản xuất bởi tế bào phế nang loại II từ khoảng tuần thai thứ 24 – 28 đến khoảng tuần thai thứ 34 – 36. Bơm Surfactant là kỹ thuật cung cấp chất hoạt động bề mặt phổi vào phổi của trẻ sơ sinh nhằm giúp giảm sức căng bề mặt phế nang, ngăn ngừa xẹp phổi và cải thiện độ đàn hồi của phổi.

Theo khuyến cáo của Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP), trẻ sinh non cần được hỗ trợ hô hấp ngay sau sinh nếu có chỉ định. Trẻ sinh cực non nên được hỗ trợ thở bằng phương pháp thông khí áp lực dương liên tục qua mũi. Kỹ thuật bơm chất hoạt động bề mặt phổi được thực hiện sớm sẽ giúp giảm tỷ lệ đặt nội khí quản ở trẻ. Liều Surfactant đầu tiên sẽ.

được thực hiện trong vòng vài giờ đầu sau sinh, tốt nhất là trong khoảng hai giờ đầu. Liều thứ hai có thể được bơm trong 6 – 12 giờ tiếp theo nếu trẻ sơ sinh không đáp ứng tốt với liều đầu.

Hiện có ba phương pháp bơm Surfactant trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh có thể được chỉ định tùy vào tình trạng cụ thể của trẻ:

  • Kỹ thuật LISA/MIST (Less Invase Surfactant Administration/Minimally Invase Surfactant Therapy): Là phương pháp bơm chất hoạt động bề mặt phổi tốt nhất, được thực hiện khi trẻ có khả năng tự thở, đáp ứng với thở máy không xâm lấn. Surfactant sẽ được bơm thông qua một ống thông nhỏ đặt vào khí quản, giúp giảm biến chứng do đặt nội khí quản, tổn thương phổi do thông khí cơ học qua nội khí quản.
  • Kỹ thuật INSURE (INtubation – SURfactant – Extubation): Được thực hiện ở trẻ sơ sinh suy hô hấp nặng hơn, tự thở kém nhưng chưa đặt nội khí quản thở máy, giúp giảm nguy cơ thở máy xâm lấn và biến chứng do thở máy. Trẻ được đặt nội khí quản qua đường miệng, tiếp đó bơm chất hoạt động bề mặt phổi và thông khí áp lực dương liên tục trong 5 – 10 phút. Sau đó, rút ống nội khí quản và thở áp lực dương liên tục cho trẻ (NCPAP) hoặc cho trẻ thở máy không xâm lấn (NIPPV).
  • Kỹ thuật bơm Surfactant cho trẻ đang thở máy xâm lấn: Đối với các trường hợp trẻ suy hô hấp nặng, không đáp ứng với thở máy không xâm lấn, trẻ được đặt nội khí quản thở máy, và được bơm chất hoạt động bề mặt phổi khi có chỉ định. Cách bơm giống phương pháp INSURE, nhưng sau khi bơm trẻ không được rút ống nội khí quản mà vẫn tiếp tục được thở máy xâm lấn.
Bơm Surfactant là kỹ thuật phổ biến trong điều trị suy hô hấp
Bơm Surfactant là kỹ thuật phổ biến trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.

Biến chứng bơm Surfactant có thể xảy ra

Một số biến chứng bơm Surfactant có thể xảy ra:

  • Giảm độ bão hòa oxy: Biến chứng này thường chỉ là thoáng qua, xảy ra khi thực hiện bơm chất hoạt động bề mặt phổi cho trẻ. Lúc này, bác sĩ có thể tạm ngừng bơm Surfactant hoặc tăng áp lực máy thở, tăng tạm thời nồng độ oxy (chỉ số FiO2) để tăng độ bão hòa oxy.
  • Nhịp tim chậm: Biến chứng này cũng thường chỉ xảy ra thoáng qua, thường liên quan đến sự kích thích của dây thần kinh phế vị hoặc do biến chứng giảm độ bão hòa oxy. Lúc này, bác sĩ sẽ tạm thời ngừng bơm chất hoạt động bề mặt phổi cho trẻ. Khi nhịp tim của trẻ hồi phục, bác sĩ sẽ tiếp tục bơm hết lượng Surfactant còn lại.
  • Hạ huyết áp: Sau khi kết thúc quá trình bơm Surfactant, trẻ có thể xảy ra hiện tượng hạ huyết áp vì trẻ bị giảm thể tích tương đối do dãn mạch, lượng máu lên phổi tăng và ống động mạch mở lớn. Lúc này, bác sĩ có thể xử trí bằng cách bồi hoàn thể tích bằng dịch truyền hoặc dùng thuốc vận mạch liều thấp.
  • Rò rỉ Surfactant: Thường gặp khi bơm chất hoạt động bề mặt phổi bằng kỹ thuật LISA hơn kỹ thuật bơm Surfactant qua ống nội khí quản vì kích thước của ống đặt vào khí quản quá nhỏ nên một lượng ít Surfactant có thể bị rò rỉ ra vùng quanh thanh môn và vùng hầu họng của trẻ.
  • Tắc nghẽn đường thở: Trong quá trình bơm chất hoạt động bề mặt phổi, một số trẻ có thể gặp phải tình trạng tắc nghẽn đường thở tạm thời do Surfactant. Biến chứng này chỉ thoáng qua, hầu như không gây nguy hiểm cho trẻ.
  • Tràn khí màng phổi: Biến chứng này có thể xảy ra khi trẻ được thông khí quá mức sau bơm Surfactant. Trẻ cần chọc hút, dẫn lưu khí màng phổi. Khả năng hồi phục tốt nếu xử trí kịp thời.
  • Xuất huyết phổi: Kích thước ống động mạch lớn có thể khiến trẻ xuất huyết phổi sau khi bơm chất hoạt động bề mặt phổi. Trẻ cần đóng ống động mạch, ổn định huyết động, điều chỉnh rối loạn đông máu nếu có.

Ngoài ra, còn tiềm ẩn một số biến chứng bơm Surfactant khác liên quan đến đặt ống nội khí quản gây tổn thương đường thở nếu trẻ được bơm Surfactant bằng phương pháp INSURE. Miễn dịch của trẻ sơ sinh kém nên trẻ có thể bị nhiễm trùng nếu không đảm bảo vấn đề kiểm soát nhiễm khuẩn. (1)

giảm bảo hòa oxy trong máu trong quá trình bơm Surfactant
Trẻ có thể xảy ra tình trạng nhịp tim chậm, hạ huyết áp, giảm bảo hòa oxy trong máu trong quá trình bơm Surfactant.

Cách giảm nguy cơ biến chứng bơm Surfactant

Nhìn chung, việc bơm Surfactant mang lại lợi ích vượt trội so với những nguy cơ có thể xảy ra. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ có chỉ định phù hợp nhằm giảm nguy cơ biến chứng bơm Surfactant ở trẻ.

Điều quan trọng là trẻ cần được chăm sóc và điều trị tại các cơ sở y tế uy tín, có đầy đủ trang thiết bị, bác sĩ giỏi giàu kinh nghiệm trong việc thực hiện kỹ thuật bơm chất hoạt động bề mặt phổi điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh. Bên cạnh đó, tất cả các trang thiết bị y tế, không gian điều trị cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn để ngăn ngừa nhiễm trùng.

Tại Trung tâm Sơ sinh, PlinkCare, trẻ sẽ được khám kỹ lưỡng trước khi thực hiện bơm Surfactant nhằm lựa chọn kỹ thuật, liều lượng thuốc phù hợp và dự phòng các biến chứng. Trong suốt quá trình điều trị, trẻ được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu sinh tồn, bao gồm nhịp thở, nhịp tim, độ bão hoà oxy trong máu… Sau điều trị, trẻ tiếp tục được theo dõi và chăm sóc trong phòng chăm sóc đặc biệt cho đến khi tình trạng của trẻ ổn định.

Sau khi bơm Surfactant trẻ sơ sinh sẽ được chăm sóc
Sau khi bơm Surfactant trẻ sơ sinh sẽ được chăm sóc và theo dõi chặt chẽ phòng ngừa biến chứng, nhiễm trùng.

Lợi ích của bơm Surfactant khi điều trị suy hô hấp sơ sinh?

Bơm chất hoạt động bề mặt phổi đóng vai trò quan trọng trong điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ sinh non, sinh cực non, cụ thể gồm:

  • Giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong ở trẻ mắc bệnh màng trong: Ở trẻ sinh non, sinh cực non, tế bào phế nang loại II chưa hoàn thiện hoặc bị ức chế hoạt động dẫn đến tình trạng thiếu hụt Surfactant, gây hội chứng suy hô hấp cấp (bệnh màng trong). Bơm Surfactant sớm sẽ giúp cải thiện tình trạng suy hô hấp, thở gắng sức, thở co lõm ngực, rên rỉ… Nhưng nếu trẻ không được bơm chất hoạt động bề mặt phổi kịp thời, suy hô hấp cấp cơ thể gây biến chứng tràn khí màng phổi, xuất huyết phổi… thậm chí là tử vong.
  • Cải thiện quá trình oxy hóa, giảm nhu cầu oxy hóa qua màng ngoài cơ thể: Một số trẻ đủ tháng, gần đủ tháng có thể gặp phải tình trạng thiếu hụt Surfactant do tế bào phế nang loại II bị bất hoạt và Surfactant bị phá hủy do các nguyên nhân như viêm phổi hít phân su, viêm phổi nặng, xuất huyết phổi… Bơm chất hoạt động bề mặt phổi kịp thời giúp phục hồi quá trình oxy hóa, giảm nhu cầu oxy hóa qua màng ngoài cơ thể, giảm nguy cơ biến chứng và tử vong.
  • Giảm nguy cơ thở máy xâm lấn, tràn khí màng phổi, khí phế thủng: Bơm chất hoạt động bề mặt phổi sớm kết hợp với thông khí sẽ bảo vệ phổi, giúp tăng cơ hội sống sót khỏe mạnh, giảm nguy cơ loạn sản phổi ở trẻ sinh non.
  • Rút ngắn thời gian thở máy, cải thiện trao đổi khí: Bơm Surfactant giúp cải thiện tình trạng trao đổi khí ở trẻ, ngăn ngừa tổn thương, biến chứng ảnh hưởng đến phổi. Từ đó, trẻ có thể hồi phục nhanh hơn, rút ngắn thời gian chăm sóc tích cực, nằm viện.

Mặc dù kỹ thuật này vẫn tiềm ẩn những nguy cơ nhưng phần lớn các biến chứng bơm Surfactant đều có cách khắc phục. Hơn nữa, so với những lợi ích mà kỹ thuật bơm Surfactant mang lại, những biến chứng này là không đáng kể.

Tư vấn

close
  • smart_toy

    Chào bạn 👋
    Tôi có thể giúp gì cho bạn?

send