
Bệnh động mạch ngoại biên: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị
Bệnh động mạch biên là gì?
Động mạch ngoại biên là các động mạch đưa máu đến tứ chi (tay, chân). Bệnh động mạch ngoại biên (BĐMNB) là một tình trạng bệnh lý của mạch máu, làm lòng mạch bị hẹp, khiến cho lưu lượng máu đi qua chỗ hẹp bị giảm, hậu quả làm phần chi thể bên dưới chỗ hẹp bị thiếu máu.

Mức độ phổ biến của bệnh động mạch ngoại biên
Bệnh động mạch ngoại biên là một bệnh lý rất phổ biến, đặc biệt bệnh ngày càng gia tăng ở nhóm bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch, người già trên 70 tuổi. (1)
Các giai đoạn tiến triển của bệnh động mạch ngoại biên
Bệnh động mạch ngoại biên (BĐMNB) có thể được chia làm các giai đoạn bao gồm:
- Giai đoạn I không có triệu chứng: Ở giai đoạn đầu tiên, PAD có sự tích tụ mảng bám trong động mạch nhưng không có triệu chứng rõ ràng.
- Giai đoạn II đau cách hồi (IC): Đau cách hồi là giai đoạn người bệnh có dấu hiệu đau hoặc chuột rút ở bắp chân, đùi, mông, cơn đau thường xuất hiện khi tập thể dục và cải thiện khi được nghỉ ngơi. Nguyên nhân đau do động mạch bị hẹp không cung cấp đủ máu giàu oxy đến cơ bắp.
- Giai đoạn III thiếu máu cục bộ chi trầm trọng (CLI): Bệnh nhân mắc CLI sẽ cảm thấy khó chịu và đau ở bàn chân hoặc ngón chân, ngay cả khi nghỉ ngơi. Triệu chứng thường tồi tệ hơn vào ban đêm hoặc khi nâng cao chân.
- Giai đoạn IV: Thiếu máu cục bộ chi cấp tính (ALI): Trong khi ba loại biểu hiện trên có sự tiến triển theo thời gian thì giai đoạn ALI xảy ra một cách đột ngột.
Nguyên nhân hay gặp của bệnh động mạch ngoại biên
Phần lớn các nguyên nhân gây ra bệnh động mạch ngoại biên là do mảng xơ vữa tích tụ trong lòng mạch, gây hẹp động mạch, và đây là một quá trình tiến triển dần theo thời gian. Một số ít trường hợp khác có thể do mạch máu bị tổn thương khi tiếp xúc với tia xạ, đặc biệt là ở những vùng phải điều trị xạ trị.
Các yếu tố rủi ro làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh động mạch ngoại biên bao gồm:
- Người thường xuyên hút thuốc lá.
- Bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường.
- Người có tiền sử gia đình về bệnh động mạch ngoại biên, bệnh tim mạch hoặc đột quỵ.
- Người hay bị tăng huyết áp.
- Người có cholesterol cao.
- Người có hàm lượng axit amin homocysteine cao, làm tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch vành.
- Tuổi cao, đặc biệt là sau 65 tuổi (hoặc sau 50 nếu có yếu tố nguy cơ mắc xơ vữa động mạch).
- Béo phì (có chỉ số BMI > 30). (2)
Triệu chứng của bệnh động mạch ngoại biên biểu hiện như thế nào?
Triệu chứng bệnh nhân tùy thuộc vào mức độ hẹp của động mạch, mức độ phát triển của tuần hoàn phụ và vị trí động mạch bị hẹp. Khoảng 2/3 các bệnh nhân có triệu chứng. Các triệu chứng của bệnh động mạch ngoại biên có thể gặp (tùy theo từng giai đoạn) bao gồm:
- Đau ở bắp chân/ cẳng chân (giai đoạn II theo Lerich-Fontaine), có cảm giác đau kiểu như chuột rút ở cơ cẳng chân, đi xuất hiện khi bệnh nhân đi lại, đoạn đường đi được có thể dài hay ngắn tùy thuộc vào mức độ hẹp của động mạch (đôi khi triệu chứng đau không rõ, bệnh nhân chỉ mau mỏi chân khi đi lại).
- Triệu chứng đau bắt buộc bệnh nhân phải dừng lại nghỉ, và triệu chứng đau sẽ cải thiện. Triệu chứng đau tái diễn tương tự khi bệnh nhân tiếp tục đi lại như trên (thuật ngữ chuyên môn gọi là đi lặc cách hồi).
- Khi bệnh tiến triển đến những giai đoạn sau, hoặc khi động mạch bị hẹp nặng hoặc tắc, triệu chứng đau sẽ xuất hiện liên tục cả khi bệnh nhân nghỉ ngơi, đặc biệt về đêm (giai đoạn III).
- Khi máu đến chi thể không đủ, giai đoạn này nhanh chóng dẫn đến loét, hoại tử ngón chân, bàn chân hay cao hơn (tức là các ngón chân, bàn chân không được nuôi dưỡng và bị chết). Lúc này cắt cụt chi (nhỏ hay lớn) sẽ là điều không thể tránh khỏi nếu không điều trị (giai đoạn IV).

Bệnh động mạch ngoại biên có nguy hiểm không?
Bệnh động mạch ngoại biên là một bệnh lý nguy hiểm. Ngay cả khi có điều trị, tiên lượng của bệnh động mạch ngoại biên vẫn cần được lưu ý thận trọng. Nếu người bệnh không thay đổi các thói quen sinh hoạt (ví dụ không bỏ thuốc lá,…) thì bệnh vẫn sẽ tiếp diễn nhanh chóng.
Hầu hết, các bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên có các bệnh lý tim mạch và mạch máu não kèm theo, những yếu tố này làm gia tăng tỷ lệ tử vong cho người bệnh.

Biến chứng của bệnh động mạch ngoại biên
Các biến chứng có thể gặp liên quan đến bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên nếu không điều trị hoặc điều trị không đúng, chậm trễ có thể gặp như:
- Thiếu máu chi/ hoại tử chi.
- Cắt cụt chi.
- Nhiễm trùng trên tổ chức hoại tử.
- Loét.
- Đột quỵ tim.
- Đột quỵ não.
Chẩn đoán bệnh động mạch ngoại biên như thế nào?
Để chẩn đoán bệnh động mạch ngoại biên cho những bệnh nhân không có triệu chứng, bác sĩ thường tầm soát ở những người bệnh lớn tuổi, hay bệnh nhân có yếu tố nguy cơ tim mạch cao.
Bệnh nhân thường đến khám khi có các triệu chứng như: Lạnh chi, đau chân, tay, có các tổn thương loét hay đã hoại tử đen,… Khi được khám lâm sàng, Bác sĩ đã có sơ bộ chẩn đoán bệnh cũng như giai đoạn bệnh. Tại phòng khám, Bác sĩ sẽ đo huyết áp ở tay và ở chân của bệnh nhân để có những đánh giá kỹ hơn.
Một số phương pháp chẩn đoán bệnh động mạch ngoại biên bác sĩ có thể thực hiện bao gồm:
- Siêu âm mạch máu: Bệnh nhân sẽ được cho làm siêu âm Doppler mạch máu chân (hoặc tay) để sơ bộ có chẩn đoán bước đầu. Các hình ảnh Doppler (được lưu trữ lại trong hồ sơ) còn có ý nghĩa để so sánh và theo dõi kết quả điều trị bệnh.
- Chụp động mạch số hóa xóa nền (Digital Subtraction Angiography/DSA): Đây được xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh động mạch ngoại biên cũng như trong chuyên ngành phẫu thuật mạch máu. Hình ảnh chính xác, khách quan nhất và có giá trị nhất trong quyết định chẩn đoán và điều trị.
- Chụp CT scan mạch máu đa lát cắt có dựng hình 3D (Computed Tomography Angiography/CTA): Dù sao thì chụp động mạch là một kỹ thuật ít nhiều có xâm lấn (chọc kim và đưa dụng cụ đi qua đường động mạch đến hệ thống mạch máu cần chụp). Hiện nay, kỹ thuật chụp CT mạch máu ngày cho hình ảnh rất chính xác và ngày càng phổ biến, nó được áp dụng rộng rãi, hầu như không có biến chứng, cho kết quả hình ảnh nhanh chóng. CT mạch máu giúp cho phẫu thuật viên chẩn đoán được tổn thương mạch máu và có định hướng điều trị.
- MRI mạch máu: ứng dụng ít hơn, thường chỉ định trong một số trường hợp có chống chỉ định với CT mạch máu, ví dụ như suy thận, thai nghén,.. (3)

Chỉ định điều trị bệnh động mạch ngoại biên như thế nào ?
Chỉ định phương pháp điều trị (nội khoa, ngoại khoa) cho bệnh động mạch ngoại biên (BĐMNB) phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, tuổi bệnh nhân, đặc điểm đi lại của bệnh nhân (còn hoạt động đi lại hay nằm liệt giường), bệnh lý phối hợp (hẹp động mạch vành, hẹp động mạch cảnh, tai biến mạch máu não, các tình trạng bệnh lý nội khoa khác phối hợp vv.),tổn thương động mạch trên CT-scan mạch máu hay trên phim chụp mạch và cả điều kiện kinh tế – cuộc sống của người bệnh.
Tùy từng trường hợp cụ thể, người bệnh sẽ được bác sĩ phẫu thuật mạch máu tư vấn việc chọn lựa phương pháp điều trị hiệu quả và hợp lý nhất. Mục đích của điều trị bệnh động mạch ngoại biên gồm:
- Làm giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch.
- Cải thiện khả năng đi lại.
- Tránh mất chi thể do thiếu máu/hoại tử.
Tất cả các trường hợp bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên dù có triệu chứng hay không có triệu chứng thì đều có nguy cơ cao bị đột quỵ, nhồi máu cơ tim và huyết khối so với những người không có bệnh động mạch ngoại biên (BĐMNB).
Các biện pháp điều trị bệnh động mạch ngoại biên
Để điều trị bệnh động mạch ngoại biên, một số phương pháp được chỉ định có thể bao gồm:
1. Điều trị nội khoa
- Điều trị các yếu tố nguy cơ tim mạch bằng cách ngưng ngay thuốc lá, điều chỉnh và kiểm soát đường máu, các rối loạn lipid máu. Kiểm soát tốt huyết áp.
- Thay đổi các thói quen sinh hoạt hằng ngày.
- Các thuốc có thể dùng như thuốc chống ngưng tập tiểu cầu, chống đông, các thuốc giãn mạch, giảm đau.
- Can thiệp mạch qua da (nong mạch +/- đặt stent), đây là phương pháp ít xâm nhập, bệnh nhân có thể ra viện ngày hôm sau, ít biến chứng toàn thân. Chỉ định trong một số trường hợp nhất định, tỷ lệ bị hẹp lại hoặc tắc mạch sớm rất cao. Can thiệp cho kết quả tốt khi những tổn thương ngắn, ít vôi, và ở vùng chậu – đùi.
2. Điều trị bằng phẫu thuật
- Cầu nối mạch máu: Phẫu thuật trực tiếp lên mạch máu thường là các cầu nối – nghĩa là phẫu thuật viên dùng một đoạn mạch máu tự thân của bệnh nhân nối tắt từ trên chỗ hẹp/ tắc đưa máu xuống bên dưới chỗ hẹp/tắc. Mặc dù bệnh nhân phải trải qua một cuộc mổ, tuy nhiên tỷ lệ lưu thông mạch máu (thông cầu nối) về lâu dài rất tốt, rất hiệu quả và cải thiện được tỷ lệ cắt cụt chi.
- Cắt cụt chi: Đây là biện pháp sau cùng khi tổn thương mạch máu của bệnh nhân không còn khả năng phẫu thuật, can thiệp. Tổn thương hoại tử lan rộng. Tỷ lệ bệnh nhân vào viện bị hoại tử chi cần cắt cụt ngay chiếm đến khoảng 6 – 10%. (4)
Phòng ngừa bệnh động mạch ngoại biên như thế nào?
Để phòng ngừa bệnh động mạch ngoại biên, người bệnh cần lưu ý một số biện pháp bao gồm:
- Cần có lối sống lành mạnh, không thuốc lá, tích cực tập thể dục vận động, kiểm soát cân nặng.
- Kiểm soát các bệnh lý nguy cơ như đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, điều trị chứng béo phì.
Những biện pháp này giúp làm giảm tần suất mắc bệnh động mạch ngoại biên, làm giảm diễn tiến của bệnh khi bệnh nhân đã bị BĐMNB và làm giảm tỷ lệ tử vong chung do nguyên nhân tim mạch.
Một số lời khuyên của bác sĩ chuyên khoa Ngoại Tim mạch đối với bệnh động mạch ngoại biên
Bệnh nhân khi được chẩn đoán bệnh động mạch ngoại biên, cần phải tuân thủ mọi chỉ định điều trị, đặc biệt là cần thay đổi lối sống, vì đây là một bệnh lý luôn tiến triển. Cần được tư vấn ở phẫu thuật viên tim mạch ngay khi có những dấu hiệu bất thường hoặc khi xuất hiện nhiều yếu tố gây ra nguy cơ tim mạch.
Tại Trung tâm Tim mạch, PlinkCare TP.HCM sở hữu đội ngũ bác sĩ nhiều kinh nghiệm, được tu nghiệp chính quy về phẫu thuật tim mạch, đa chuyên khoa phối hợp (phẫu thuật tim mạch, nội khoa tim mạch, nội tiết,…). PlinkCare còn trang bị hiện đại bậc nhất Việt Nam và khu vực. Đặc biệt, đội ngũ phẫu thuật viên đã phẫu thuật rất nhiều bệnh lý động mạch ngoại biên, đây sẽ là nơi tin tưởng để lựa chọn tầm soát, theo dõi và điều trị các bệnh lý về mạch máu nói riêng và bệnh lý tim mạch nói chung.
Để đặt lịch khám, tư vấn và điều trị trực tiếp với các bác sĩ tại Trung tâm Tim mạch, PlinkCare, Quý khách hàng có thể liên hệ theo thông tin sau:
Bệnh động mạch ngoại biên là bệnh lý phổ biến với nhiều giai đoạn khác nhau và có thể chữa trị được. Tuy nhiên nếu bệnh không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.